QUAN NIỆM ĂN CHAY ĂN MẶN TRONG ĐẠO PHẬT
Hỏi: Có phải những
người theo đạo Phật thì phải ăn chay, không nên ăn thịt, và không ăn thịt chó.
Quan niệm này xuất xứ từ đâu?
Đáp:
Ăn chay, nói cách khác là không ăn thịt động vật, là một phần của việc thực
hành giáo pháp giữ gìn giới luật không giết hại và trưởng dưỡng lòng Từ bi. Đây
là một trong những pháp hành quan trọng của người Phật tử tại gia và xuất gia
trong cả hai truyền thống Phật giáo Nguyên Thuỷ - Nam tông – (Theravada) và Phật
giáo Đại thừa – Bắc tông (Mahayana).
Nói về
quan niệm ăn chay cùng xuất xứ của nó hiện
tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Rõ rệt nhất là sự khác biệt giữa Phật
giáo Nguyên thuỷ- Nam tông, không có quan niệm ăn chay và Phật giáo Đại thừa- Bắc
tông chủ trương ăn chay.
Theo
Phật giáo Nguyên thuỷ - Nam tông, việc ăn chay không có mặt trong thời Phật
Thích Ca tại thế. Do đó, chủ trương của Phật giáo Nguyên thuỷ - Nam tông, ăn
cách nào cũng được, tuỳ duyên trong ăn uống sao cho có đủ sức khoẻ để hành trì
giáo pháp (Theo Hoà thượng Hộ Tông). Phật giáo Nguyên thuỷ - Nam tông không đặt
thành vấn đề ăn chay, ăn mặn, vì “sự giải thoát không phải do nơi ăn, mà do nơi
thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu và ý”. Hơn nữa, chính Đức Phật sau khi nghe lời
thỉnh cầu của Đề Bà Đạt Đa xin ban hành giới cấm không cho hàng Tỳ kheo ăn thịt
cá, Ngài đã không chấp nhận. Trong kinh Jivaka, Ngài dạy: “Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt được thọ dụng (Tam tịnh nhục):
Không thấy, không nghe và không nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói
trong ba trường hợp này, thịt được thọ dụng”. Như vậy, chư Tăng thời Phật
còn tại thế sống nhờ vật thực bá tánh dâng cúng trong lúc đi khất thực, hoàn
toàn không phân biệt chay mặn, ngoài trừ những vật thực nằm ngoài Tam tịnh nhục.
Vấn đề
người Phật tử được ăn thịt hay không đã được Đức Phật giải quyết bằng “thuyết”
Tam tịnh nhục theo quan điểm của Phật giáo Nguyên thuỷ - Nam tông. Nhưng ăn
chay không phải đợi đến Phật giáo Đại thừa phát triển ở Trung Hoa mới có. Ngay từ thời vua Asoka
(thế kỷ III trước Tây lịch), việc ăn chay, bảo vệ động vật đã trở thành phổ biến.
Trong các chỉ dụ khắc trên bia đá được giới khảo cổ khai quật, Asoka đã nghiêm
cấm mọi hành động giết thú vật, tất cả việc săn bắn trên bộ, trên không và dưới
nước tuyệt đối bị ngăn cấm.
Khi
Phật giáo Đại thừa hình thành, hầu như trong tất cả kinh điển Đại thừa không có
kinh nào đề cấp đến việc Phật cho phép ăn thịt. Không những thế, các kinh này
còn nói rõ việc ngăn cấm ăn thịt. Trong kinh Lăng Già Phật dạy: “Này Mahamati, thức ăn của người trí không gồm
máu và thịt. Do đó, thịt của một con chó, một con bò…hay thịt người, hoặc là thịt
của bất cứ chúng sanh nào khác, vị Bồ tát không nên ăn thịt. Này Mahamati, vị Bồ
tát an trụ trong Đại bi, thương chúng sanh như con độc nhất, do đó phải kiêng
ăn thịt”… Kế đến, phật đưa ra tám lý do giải thích nguyên nhân vì sao người
Phật tử không nên ăn thịt. Trong đó, lý do sau cùng Phật thừa nhận đã “phương tiện nói giáo pháp cho ăn Tam tịnh nhục
và Ngũ tịnh nhục”. nhưng “Nay ở kinh
này, xoá bỏ tất cả phương tiện, bất cứ lúc nào, chủng loại nào, phàm thuộc loại
thịt chúng sanh, thảy đều đoạn dứt”. Có thể nói kinh Lăng Già là cột mốc của
thời điểm huỷ bỏ mọi phương tiện ăn tịnh nhục đã được Phật quy định trước đó.
Trong
kinh Lăng Nghiêm, Phật lại nói đến việc cấm ăn thịt: “Những người ăn thịt dù được khai ngộ nhưng khi hết phước báo, ắt phải
chìm trong biển khổ, chẳng phải đệ tử Phật”, và lại “Làm sao người có lòng đại bi mà ăn thịt chúng sanh?”
Trước
khi Phật nhập Niết bàn, Ngài vẫn còn căn dặn: “Này Ca Diếp, bắt đầu từ nay trở đi, Như Lai không cho phép hàng Thanh
văn đệ tử ăn thịt. Nếu đàn việt dâng thí, phải xem thịt ấy như là thịt của con
mình. Như Lai cấm các đệ tử không được ăn tất cả các thứ thịt”
Đến đây thì vấn đề người Phật tử nên ăn thịt hay
không đã được phân định. Đối với Phật giáo Nguyên thuỷ, không có quan niệm về
chay mặn, chỉ có quan niệm về Tam tịnh nhục. Do đó, chư Tăng và Phật tử tu tập
theo truyền thống Phật giáo Nguyên thuỷ có thể ăn những thực phẩm thuộc về Tịnh
nhục. Dù được ăn thịt nhưng không giết hại sinh vật và tu tập phát triển tâm Từ
bi vẫn là những tiêu chí hàng đầu. Riêng với Phật giáp Đại thừa không ăn các loại
thịt, chỉ ăn ngũ cốc và rau quả tức ăn
chay là nguyên tắc bất di bất dịch. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ áp dụng cho
Tăng sĩ. Còn đối với Phật tử tại gia, việc ăn chay được khích lệ trường chay hoặc
giới hạn trong những ngày trai mà thôi.
Đối với
vấn đề thịt chó, thịt chó cũng là một loại thịt chúng sanh như bao chúng sanh
khác. Vì thế, theo Phật giáo, khi đã ăn chay thì không ăn bất cứ loại thịt nào.
Không kiên cữ riêng biệt đối với một số loài như Hồi giáo không ăn thịt heo hoặc
Ấn Độ giáo không ăn thịt bò. Do vậy, trong Phật giáo không có vấn đề kiên cử
không ăn thịt chó như mọi người quan niệm.
Quan
niệm kiêng ăn thịt chó đối với người thường và đặc biệt đối với những người tu
hành là một quan niệm được hình thành trong nhân gian. Có lẽ đây là kết quả của
sự pha trộn giữa quan niệm ăn chay Phật giáo và tín ngưỡng nhân gian. Thiển
nghĩ, chó là loại vật thân thiết, gắn bó, trung thành và có ích đối với đời sống
con người nên thường được con người xem như người bạn hữu, thậm chí như một
thành viên trong gia đình. Khi còn sống,
chó được con người đối xử nhân hậu, thường được vuốt ve, tâm sự và lúc chết được
chôn cất chu đáo. Do đó, đánh đập hoặc giết hại chó là một hành vi bất nhẫn, ăn
thịt chó là càng bất nhẫn và táng tận lương tâm hơn. Cùng với truyền thống ăn
chay của Phật giáo, việc ăn thịt chó dần dần hình thành và trở thành một tín
ngưỡng dân gian về kiêng ăn thịt chó./.
(Trích Phật pháp bách vấn tập I, 20/11/2024)
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét