NÊN HỌC Y HỌC, HAY HỌC PHẬT HỌC?
Hỏi: Có một Ni sinh sau khi tốt nghiệp Trung Cấp
Phật học, dự định sẽ tiếp tục học Cao đẳng chuyên khoa Phật học. Nhưng cũng muốn
theo học ngành Y học dân tộc để sau này về giúp dân nghèo ở quê nhà. Xét thấy
tuổi đã lớn, lại không có năng khiếu thuyết giảng nên khá phân vân trong việc định hướng nên học Cao
học hay học ngành y? Trong việc học tập dù có cố gắng rất nhiều, nhưng kết quả,
thua kém huynh đệ rất xa, đồng thời chẳng có chút năng khiếu nào về diễn giảng
cả nên nghĩ về bản thân đối với sự nghiệp hoằng pháp tôi rất buồn. Tôi muốn
hoàn thiện mình để phụng sự đạo pháp được tốt hơn. Không biết nên chọn phương
hướng nào, mong được chia sẻ góp ý.
Đáp: Tiêu chí hiện nay của một người tu
sĩ thì phải thông việc đạo lại thạo việc
đời, có như thế mới làm tốt đời, đẹp đạo. Tuy nhiên, việc nắm vững về giáo
lý tổng quát và chuyên sâu một pháp môn tu tập để ứng dụng tu hành, đạt được an lạc và giải thoát vẫn là
điều quan trọng nhất.
Trong chừng mực nào đó,
chương trình Trung cấp Phật học hiện nay đã trang bị cho học viên một kiến thức
nền tảng về Phật học khá vững vàng. Do vậy, nếu biết nỗ lực tự học tập, nghiên
cứu về phương diện Phật học đồng thời
theo học một chuyên môn khác hợp sở trường để làm phương tiện độ sinh, như
ngành y chẳng hạn, là một điều lý tưởng.
Theo thiển ý của chúng tôi, một
vị tu sĩ hoằng pháp thành công không nhất thiết phải có trình độ Phật học uyên
thâm, có học vị cao và thuyết pháp hấp dẫn. Đó chỉ là một phương tiện trong vô
số phương tiện. Thực tế cho thấy có rất nhiều bậc Thầy “thuyết pháp” âm thầm và
lặng lẽ với hạnh nguyện và tâm từ bi đã cảm hoá được nhân tâm, giúp người mê
quay về quy hướng Tam bảo, xả ác làm
lành, sống đạo tu tập. Bản nguyện của người xuất gia là thượng cầu Phật đạo hạ
hoá chúng sinh. Trong hoằng hoá, có thể tuỳ duyên vận dụng phương tiện, càng
thiện xảo trong phương tiện thì kết quả hoằng pháp càng cao.
Vì thế, muốn xây dựng cho bản
thân một phương tiện thiện xảo làm cơ sở hoằng pháp, trước hết phải xem xét những
sở trường và sở đoản của tự thân để quyết định một hướng đi thích hợp cho mình.
Cô đã tự nhận ra mình “tuổi đã lớn, không có năng khiếu thuyết pháp”, đồng thời
lại “muốn theo học ngành Y học dân tộc để sau này về giúp dân nghèo ở quê nhà”, chứng tỏ cô đã
tìm ra hướng đi thích hợp cho mình rồi. Trong bối cảnh hoằng pháp hiện nay,
Giáo hội rất cần những nhân sự có chuyên môn cao về lãnh vực y tế và xã hội, nhất
là Ni giới. Trong trường hợp của cô, việc xác định theo học ngành y để làm
phương tiện hoằng hoá, lợi sanh là đúng.
Băn khoăn và trăn trở trước
thực trạng học hành đồng thời thao thức đến sự nghiệp hoằng pháp trong tương
lai của cô, thật đáng hoan nghênh. Nhưng nếu những điều ấy đem đến lo âu và buồn bã thì không nên có vì trong tu
học thì tu tập, hành pháp là quan trọng nhất.
Một người xuất gia, phải phấn
đấu để kiện toàn song song hai lãnh vực tri thức và đạo đức, lý thuyết và thực
hành, học thuật và tu chứng. Tuy nhiên, tri thức và học thuật chỉ là tiền đề,
mang tính thứ yếu. Mục tiêu mà người tu hướng đến không phải tri thức mà là trí
tuệ. Học nhiều, biết nhiều để nói nhiều đôi khi lại là một chướng ngại (sở tri
chướng). Mặt khác, tri thức không đủ khả năng chuyển hoá để hàng phục phiền
não. Chỉ có thành tựu trí tuệ mới giải quyết được tất cả mọi vấn đề. Muốn có
trí tuệ thì không có con đường nào khác ngoài tu tập.
Trong hàng đại đệ tử của Phật,
ai thông thái cho bằng A Nan và ai dốt nát như Bàn Đặc? Thế nhưng người chứng
Thánh quả A la hán trước lại là Bàn Đặc chứ không phải A Nan. Vì thế, người có tâm tu và biết tu thì học giỏi hay học
dở, cao hay thấp chẳng là vấn đề gì cả. Có khi vấn đề Phật học chỉ trong vòng
vài phút nhưng để học Phật lại mất đến suốt cả đời. Vậy nên Ô Sào thiền sư mới đáp với Bạch Cư Dị rằng: “Vấn đề
chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành thì đứa trẻ lên ba cũng biết được, nhưng
cụ già tám mươi cũng khó làm được”.
Do vậy, nếu đã cố gằng hết
mình nhưng vẫn học kém thì cô hãy nỗ lực trau dồi đức hạnh, siêng năng giữ giới,
tụng kinh, bái sám, niệm Phật và toạ thiền. Chính sự thành tựu về đức hạnh sẽ
làm cho cô “toả sáng” trong đại chúng. Về
diễn giảng cũng vậy, ngoài khẩu giáo còn có thân giáo nữa. Chỉ cần bước đi vững
chãi, lễ bái chí thành, động tịnh uy nghi thì nơi tự thân đã là một pháp thoại
sinh động “im lặng như sấm sét”, có thể chuyển hoá và đem lại tịnh tín cho nhiều
người.
Phật học cốt yếu là ở chỗ thực
hành. Trí tuệ, an lạc và giải thoát cũng do thực hành, tu tập mà có. Học tập,
nghiên cứu chỉ là trí hữu sư, giới hạn và trói buộc. Tu niệm mới đạt trí vô sư,
tự tại và giải thoát./.
(Trích Phật pháp
Bách vấn tập I, 07/12/2024)
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét