CÔNG ĐỨC HỌC PHẬT PHÁP
Hành
giả đến với đạo Phật chỉ có hai việc đó là Học và Hành. Ta thường nghe nói tu
hành là vậy, bên sự bên lý, bên lý thuyết bên thực hành. Lời nói và việc làm đi
đôi. Cái hành bổ khuyết cho cái học, cái học làm sáng tỏ cho cái hành. Học là
nhân Hành là quả, trong lúc thực hành chúng ta thấy có kết quả, có hiệu nghiệm.
Kinh
Đại Bát Niết Bàn có dạy rằng: “Hữu tâm vô trí trường ngu si, hữu trí vô tín trường tà kiến”. Có nghĩa là,
có niềm tin mà thiếu trí tuệ, thì trường kỳ ngu muội, có trí tuệ mà thiếu niềm
tin là tà kiến dài dài. (Tin không hiểu là mê tín, Hiểu không tin là tà kiến).
Nếu
người chỉ xem trọng niềm tin mà thiếu đi sức mạnh của trí tuệ, thì đối với Phật
pháp, càng tăng trưởng ngu muội, vì không phân biệt được chánh tà, không phân
biệt được đúng sai, nghe gì tin nấy, rồi đem ra thực hành. Nhiều người không
thông hiểu Phật pháp, đem tín ngưỡng nhân gian xen tạp vào Phật pháp, đây không
phải là chuyện xem nặng tín tâm, mà là thiếu trí tuệ. Hậu quả là không phân biệt
được tà hay chánh, đúng hay sai? Chỉ biết nói tin Phật, tin Bồ tát, tin cảm ứng,
tin có thần thông, cứ kéo dài như thế, thì học Phật tăng trưởng ngu si, so ra
có khác gì với ngoại đạo là bao.
Nếu
chỉ xem trọng trí tuệ mà thiếu niềm tin thì thường là tà kiến, vì không có tín
tâm, tuy quanh năm suốt tháng đều vùi đầu vào nghiên cứu Phật pháp. Nhưng kết
quả chỉ làm tăng trưởng tà tri tà kiến. Từ ban đầu đã không tin Phật, chẳng tin
pháp, nói đơn giản là không có nơi nương tựa.
Nghe
Pháp: Lộ trình tu học Phật pháp có
ba phần: Văn, Tư, Tu. Đối với người học Phật trước hết cần phải nghe pháp. Nghe
là Văn, tức lắng nghe người giảng giải. Thông thường chúng ta hay nghĩ rằng tụng
kinh sẽ được nhiều công đức này, công đức nọ. Nhưng thật lòng mà nói, công đức
được thành tựu là nhờ vào nghe pháp. Ngài Xá lợi Phất bạch với Phật rằng: “Nếu
con không được nghe pháp Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì chẳng khác nào người bị
mù mắt”. Ngài Xá lợi Phất là một đại đệ
tử của Phật, là người có trí tuệ đệ nhất trong tăng đoàn, mà còn chú trọng nghe
pháp đến như thế, huống gì chúng ta là những người căn tánh ngu muội. Phật pháp
là ánh sáng bậc nhất cứu người, độ đời, chúng ta muốn hấp thụ lợi ích chân thật
của Phật pháp, thì không thể bỏ qua việc nghe pháp. Trong kinh có dạy: “ Phải học
rộng nghe nhiều mới hiểu được Pháp, nghe nhiều mới tránh được sai lầm, nghe nhiều
mới không làm những việc vô nghĩa, nhờ nghe nhiều mà chúng ta có được sự an lạc.
Nghe
nhiều mới hiểu được pháp, tức nhờ tinh tấn nghe giảng kinh thuyết pháp, chúng
ta mới hiểu được nghĩa lý chân thật của Phật pháp, phân biệt được đúng sai, thiện
ác, chánh tà, ở trong thế gian, nhờ nghe pháp mà sinh khởi tư duy.
Người
học Phật quan trong là sửa đổi được sai lầm, kẻ phàm phu ngu muội vì không lắng
nghe, nên làm ác mà không biết. Nhờ lắng nghe Phật pháp, nên họ hiểu được chân
lý sinh diệt biến đổi, sẽ chuyển hoá được hành vi và ý nghĩ của bản thân, trở
thành con người mới, không còn lặp lại những lỗi lầm đã tạo. Nghe pháp chẳng khác nào soi gương, nhìn thấy
những ưu và khuyết điểm, nhờ thế mà có cơ hội thay đổi làm mới chính mình.
Trong
xã hội có nhiều người muốn trở thành bậc toàn thiện, nhưng vì không có cơ hội
nghe Phật pháp, nên làm những việc không đúng mà cho rằng đó là chân lý nên bám
víu đeo đuổi, rồi lấy đó làm đường lối tu tập. Như ở Ấn Độ, ngoại đạo tu khổ hạnh,
hành trì giới trâu, giới chó… các nước khác như đạo Tiên thiên, đạo Nhất quán
v.v…họ không chứng mà cho là chứng, không biết mà cho là biết. Người học hiểu
Phật pháp, chắc chắn không làm những việc
vô nghĩa như vậy. Khi thâm nhập Phật pháp, tâm sẽ sáng, trí sẽ khai mở, có được
cái thấy biết đúng đắn, dùng chánh kiến quét sạch những vọng chấp trong thâm
tâm. Học hỏi pháp Đại thừa, nhờ nghe nhiều chánh pháp nên phát khởi tâm thắng
giải, tâm không còn thoái lui.
Lại
có ý kiến cho rằng học Phật quan trọng là phần thực hành, nếu học mà không thực
hành, thì cũng chỉ làm kiến thức tăng trưởng chẳng lợi ích gì, nói cho cùng,
người học Phật chân chính cần phải biết, nhận thức này cũng có một phần đúng,
nhưng muốn thực hành, trước cần phải nghe để hiểu, xong mới áp dụng, nên việc
nghe pháp không thể thiếu trong quá trình tu học Phật pháp.
Có những
người tu học càng lúc càng tiến tới phương hướng cực đoan, cho rằng xem kinh,
luận không bằng thực hành, nên không màng đến kinh luận, tự mình mày mò tìm cầu,
nên bị lạc vào đường đen tối, đến nỗi, từ người thông hiếu Phật pháp, bây giờ
trở thành tín ngưỡng mù quáng.
Ngoài
ra, cũng có thành phần ngược lại, có những người chỉ chú trọng ở việc nghe nhiều,
chuyên dùng văn tự để làm kỷ năng mà không biết dùng chánh pháp để làm mới thân
tâm, như thế không những thiếu đi tinh thần thực tập, mà đến cả việc làm chân
chính thực sự cũng hư mất rồi.Vì thế, những
người chú trọng việc tu tập, không thích nghe những thuật ngữ Phật học, danh từ
Phật học đã bị giới học thuật đồng hoá, vì họ chú trọng ở sự hiểu biết quá trừu
tượng.
Người
chân chính học Phật, thì huệ giải và tín hành cần phải được dung hoà hợp nhất,
vì thế, chúng ta trước phải nghe pháp,
hiểu được những lời giảng giải ấy rồi đem ra thực tập, mới tránh được đi sai đường
lạc lối.
Nghiên
cứu Phật pháp có hai điều: Một là nghe từ thầy bạn, hai là tự mình tìm tòi
nghiên cứu. Nếu chỉ nghe người khác giảng
giải, thì cũng chưa đủ mà cần phải tự mình bỏ công sức ra nghiền ngẫm nghiên cứu,
thì mới thâm nhập kinh tạng.
Mục
tiêu học Phật.
Học Phật cần phải có mục
tiêu, nghĩa là vì sao chúng ta học Phật pháp?
Phát tâm học Phật có hai loại:
Thứ nhất phát tâm vì sinh tử, phát tâm như vậy gọi là phát tâm Tiểu thừa, phát
tâm xuất ly tu tập đến tối thượng, chỉ
có thể chứng đắc A la hán. Thứ hai, phát tâm Bồ đề, tức phát tâm Đại thừa, lấy
tư tưởng lợi mình lợi người làm mục đích, cho nên nói: “Thượng cầu Phật đạo, hạ
hoá chúng sanh”. Tôn chỉ của đạo Phật không ngoài việc xuất ly sanh tử.
Tu học có ba vấn đề:
a/Tịnh hoá thân tâm - b/ hoằng
dương chánh pháp - c/ Lợi ích hữu tình. Vì thiếu trí tuệ, nên quan niệm sai lầm,
nên thân tâm và hành vi của kẻ phàm phu không được thanh tịnh, sự hiểu biết
cũng bị nhiễm ô, từ vọng tưởng khởi sinh nghiệp ác. Không những tự mình chịu khổ
mà còn ảnh hưởng đến người khác. Bản thân bị luân hồi sinh tử, trong thế giới hữu
tình phải chịu vô lượng thống khổ! Học
Phật làm sao để tịnh hoá và trị liệu được thân tâm, rửa sạch những chướng
duyên, tội nặng như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, là tuyệt đối không vi
phạm; còn những tội nhẹ như động thân, mở lời đều không được phóng dật. Không
khởi tâm tham, sân, si… thì phiền não dần dần được tan biến, hành động biểu hiện
cũng được nhẹ nhàng thanh nhã, là người học Phật phải làm cho được.
Nếu người có hành động không
được thanh nhã, thì còn chưa đạt được phong cách của người bình thường, huống
gì là việc liễu sanh thoát tử? Nguyên nhân khiến cho Phật pháp suy đồi là do
người xuất gia hiểu sai ý nghĩa hộ trì Phật pháp, không dùng phương tiện để nhiếp
hoá đồ chúng, giúp họ tịnh hoá trị liệu thân tâm, hiểu được lợi ích rộng lớn của
Phật pháp. Nếu Phật pháp không giúp con người chuyển hoá được thân tâm, thì việc
hoằng pháp chỉ là phô trương hình thức, không có chút lợi ích thiết thực nào cả.
Phật pháp Tiểu thừa hay Đại
thừa, đều dạy chúng ta phải luôn tu tập tịnh hoá thân tâm, nghìn quyển kinh, vạn
bộ luận cũng đều dạy như thế. Cho nên, tịnh hoá thân tâm là vấn đề quan trọng
và căn bản nhất đối với người học Phật. Nếu bỏ qua điểm này, thì việc học Phật
hay sự nghiệp xuất gia đều không có liên quan gì đến Đức Phật! Chúng ta nên lấy
điểm cốt yếu này làm mục tiêu, rời nó là chúng ta sẽ không có nền tảng Phật
pháp.
Như thế vẫn còn chưa đủ.
Chúng ta còn phải thay đổi hành động của mình, để có được an lạc, chúng ta tịnh
hoá thân tâm, cầu chứng Niết bàn, như thế chỉ được lợi ích cho bản thân. Người
học Phật cần phải phát tâm đại bi, phát đại thệ nguyện, đại nguyện là phát tâm
hoằng dương chánh pháp, đại bi là vì lợi ích muôn loài. Phật pháp là ánh sáng của
muôn loài thế gian! Tất cả sự việc ở thế gian và hành vi của mỗi người không
phù hợp với Phật pháp, thì sẽ đưa đến kết quả tồi tệ. Chính vì thế, người xuất
gia cần phải phát tâm rộng lớn, làm cho chánh pháp được lan truyền khắp mọi
nơi, giúp cho con người có cơ hội học hỏi và hiểu được Phật pháp, thực tập lời
Phật dạy, gặt hái lợi ích tối thượng để được cứu cánh an lạc.
Hoằng dương chánh pháp, không
phải đơn thuần chỉ để truyền bá chánh pháp, mà vì lợi lạc quần sanh. Nói đến
làm lợi ích chúng sanh, những tôn giáo khác, hay chính trị, học thuật …Tuy cũng
có đặc điểm riêng, nhưng tất cả đều không đủ khả năng giúp cho hữu tình đạt được
lợi ích rốt ráo, mà thậm chí có lúc còn ảnh hưởng không tốt đến chúng sinh. Người
xuất gia vì muốn cứu độ chúng sanh cần phải nuôi chí nguyện học phật, như trong
kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Vì độ chúng sanh cần phải học”. Trong tâm niệm của Bồ
tát, ngoài việc học Phật cứu độ chúng sanh, thì không còn một ý niệm nào khác
hơn. Nếu giữ mãi tâm niệm ấy, không vì lợi íc cá nhân mà vì tất cả, như thế
chính là phát Bồ đề tâm rồi.
Cũng như người ở thế gian học
nghề, nếu chỉ vì nuôi thân cơm ngày ba bữa áo đủ che thân, thì chí hướng của
người này thật là tầm thường. Nhưng nếu học được nhiều nghề, vì phục vụ cho xã
hội được hạnh phúc, như thế mới xứng đáng cho mọi người tán dương ca tụng. Việc
học Phật cũng thế, nếu học chỉ vì chuyển hoá tự thân, cầu được giải thoát, chứng
Niết bàn, là chỉ cầu được lợi ích bản thân mà không quan tâm đến người khác. Nếu
phát tâm Bồ đề, tu bồ tát hạnh, vì giúp đời, độ chúng sinh, như thế mới là người
cao thượng. Cho nên, Bồ tát phát tâm đại bi là vì nhìn thấy chúng sanh quá khổ
đau, Phật pháp suy yếu, bằng tất cả sức lực của mình, ngài phát Bồ đề tâm, phát
tâm tu như thế có sức dõng mãnh, nên được tán dương không cùng tận.
Người xuất gia và người tại
gia học Phật có điểm không giống nhau. Đoạn trừ tam độc, tu tam vô lậu học thì
người xuất gia và tại gia đều học như nhau. Nhưng không giống nhau ở chỗ, người
xuất gia cần phải có trách nhiệm gánh vác, có nhiệm vụ tiếp nối mạng mạch Phật
pháp; còn người tại gia học Phật pháp, chỉ cần chấm dứt được phiền não là tốt rồi.
Người xuất gia phải vì lợi ích chúng sanh, nên cần phải học vô lượng pháp môn,
gánh vác công việc hoằng dương Phật pháp, không thể không học theo hạnh độ đời
của bồ tát. Trí của Bồ tát còn gọi là đạo tương trí, có nghĩa là cần phải thông
thạo các pháp môn, các loại trí tuệ, thì mới đủ khả năng quảng độ chúng sanh.
Ví như một ông thầy thuốc bình thường, thì chỉ dùng một loại thuốc để trị bệnh,
nhưng nếu là một vị lương y tài giỏi, sẽ có đủ loại thuốc để điều trị cho bệnh
nhân. Một loại thuốc thì chỉ trị lành một loại bệnh, cứu người có hạn chế, nếu
vị thầy có đủ loại thuốc, thì có thể cứu cho nhiều người đem lại sự sống biết
bao nhiêu người bệnh.
Vì vậy, người xuất gia nếu chỉ
biết để tâm lo cho bản thân, thì chỉ cần hiểu một pháp môn là đủ, chỉ có khả
năng cứu độ một hạng chúng sanh mà thôi, không thể gánh vác trách nhiệm truyền
bá, khiến cho Phật pháp trường tồn. Tấm lòng rộng lớn của Bồ tát cần phải thấu
hiểu tất cả pháp môn, thì mới có thể thích hợp với đủ mọi căn tánh của chúng
sanh. Học pháp Tiểu thừa, học không chứng, còn học pháp Đại thừa, có học có chứng.
Học không chỉ dừng ở phạm vi chánh pháp, mà đến pháp của ngoại đạo cũng cần phải
biết. Hiểu được kinh điển của ngoại đạo, thì mới nhận ra khuyết điểm của họ, có
lúc chỉ một vài câu, cũng có thể đưa họ về nương tựa Tam bảo. Chính tư tưởng của
Đại thừa “Vô lượng pháp môn thệ nguyện học”. Chúng ta mới có kiến thức Phật
pháp vững vàng, nhờ tịnh hoá thân tâm, nên hoằng dương chánh pháp, sẽ lợi ích
chúng sanh.
Đặc biệt là trong lúc thế giới
đại loạn lạc, giai đoạn mà chúng sanh chịu nhiều khổ đau, cần phải tiếp tục duy
trì giới thân huệ mạng, đại nguyện thương yêu mọi loài. Trong kinh có dạy: “Khi
mình chưa chứng đắc, trước nên độ người, chính Bồ tát phát tâm”, chúng ta cần
phải phát tâm như thế. Trên thực tế, nếu tự mình chưa được lợi ích, thì làm sao
mang lợi ích đến cho người khác? Vấn đề
này, nếu tự mình chưa trải nghiệm qua, chắc chắn khó mà thuyết phục được người,
thì làm sao mà hoằng dương chánh pháp, với mục đích là mang lợi ích đến cho
muôn loài.
Tu học Phật pháp chính là tu
trí tuệ, nhưng không thể nói không cần đến những pháp môn khác, như bố thí, trì
giới, nhẫn nhục…tất cả các pháp môn đều đóng một vai trò vô cùng quan trọng,
nhưng trong đó trí tuệ là quan trọng nhất, lại là biểu tượng đặc trưng của Đức
Phật, trí tuệ trong Phật pháp được tôn xưng là cứu cánh bậc nhất.
Chúng sinh trong thế gian đều
mong lìa khổ được vui, nhưng nếu lần mò trong bóng tối. Phật pháp được ví như mặt
trời, soi sáng dẫn dắt chúng sanh, những việc nên làm, hay không nên làm, thiện
ác, đúng sai, đều dạy cho người ta nương vào con đường chánh tri kiến mà tiến tới,
thì sẽ có ngày đạt đến mục đích. Đức Phật là người đã giác ngộ, còn Bồ tát là
chúng sanh có trí huệ. Đặc trưng của Phật và Bồ tát chính là trí tuệ.
Tất cả pháp môn đều dùng trí
tuệ để tu tập thì mới thành tựu được. Bỏ trí tuệ mà tu học Phật pháp thì không
thể nào chấm dứt sanh tử được. Vì thế, trong kinh có dạy “Trong năm loại ba la
mật, thì tối thượng nhất, vi diệu nhất chính là
Bát nhã Ba la mật”. Bát nhã ba la mật đứng đầu tất cả thiện pháp, đưa đến
chứng đắc Nhất thiết trí. Từ ngữ “trí tuệ” được dùng trong Phật pháp, trí thức thế gian
không thể nào so sánh được, vì không ngang nhau. Vì thế, trình tự tu học theo
Phật pháp, chính là thứ tự của việc tu học trí tuệ.
Tu học Phật pháp bắt đầu từ
nghe mà sinh huệ, nhờ nghe nhiều như nghe thuyết pháp, xem kinh điển, nên có sự
hiểu biết đúng đắn về Phật pháp, hiểu được thật tướng của thế gian và con người,
từ đó sinh ra niềm tin tuyệt đối nơi công đức của Phật pháp, Tam bảo, Tứ đế….Đây
chính là nhờ vào siêng năng nghe chánh pháp mà phát sinh trí tuệ, có chánh kiến
rồi thì mới hiểu đúng đắn. Nhờ biết lắng nghe mà trí tuệ sinh khởi, lúc này bắt
đầu bước vào trí tuệ của chánh pháp.
Bước đầu tiên là “từ tư mà
sinh huệ”. Tư chính là tư duy, quan sát, từ tư duy quan sát để đi sâu vào bên
trong, mới có thể ngộ giải được sự thâm sâu của Phật pháp, chính nhờ tư duy mà
sinh khởi trí huệ.
Văn huệ và tư huệ đều còn khởi
tâm phân biệt, nên cần phải tiến thêm một bước là thực hành, tư duy sở thành tuệ.
Tu huệ là từ trong tu tập thiền định, trí huệ và thiền định ngang nhau, nhờ tu
tập thiền định, từ định mà phát huệ càng sâu sắc, đây mới gọi là nhờ tu mà sinh
huệ.
Văn tư và tu còn gọi là tam
huệ, đều là hữu lậu, trí huệ hữu lậu không thể dứt sạch phiền não, không thể liễu
sanh thoát tử. Cần phải đoạn tận phiền não thì mới giải thoát sanh tử, cần phải
đạt được trí bát nhã, tức trí tuệ vô lậu hiện tại (trí tuệ của văn, tư, tu là
gia hành bát nhã), bây giờ chứng đắc được bát nhã, mới chính là trí tuệ, chính
là trí tuệ vô lậu. Từ nghe mà sinh tuệ, đến trí tuệ vô lậu, như thế cần phải tu
học trí tuệ theo con đường thẳng tắp, đi từ Tiểu thừa đến Đại thừa.
Chúng ta thường nói, bát nhã
có ba loại: Văn tự bát nhã, quán chiếu bát nhã và thật tướng bát nhã. Như trước
đã trình bày tu huệ, cần phải phối hợp theo thứ tự mà thành.
Văn là nhờ nghe mà sinh huệ,
chính là văn tự bát nhã, thêm một bước nữa, tu tập quán chiếu bát nhã, tức nhờ
tư duy và tu tập mà sinh huệ. Thật tướng bát nhã chính là trí tuệ vô lậu. Từ
nghe, tư duy và tu tập mà được chứng đắc trí huệ, trong quá trình tu học, có thể
phát triển, đạt đến sinh khởi trí tuệ, nên nói là cần phải có thứ tự trước sau.
Phật pháp hướng dẫn mọi người
tu học theo cấp bậc là: Thân cận bậc thiện tri thức, lắng nghe chánh pháp, như
lý mà tư duy, nương vào pháp mà thực hành. Bốn pháp này còn gọi là dự lưu. Dự
lưu là sơ quả của Tiểu thừa. Đại thừa gọi là Sơ địa. Phàm phu muốn tham dự vào
bậc thánh hoặc ngộ nhập vào trong pháp tánh, cần phải trải qua bốn quá trình tu
học, không kể Đại thừa hay Tiểu thừa. “Thân cận thiện sĩ”, bởi vì Phật pháp từ
trước đến nay đều dùng thuyết giảng, cho nên cần phải tinh tấn nghe chánh pháp,
vì thế, trước hết tốt nhất là thận cận với sư trưởng. Cũng cần học hỏi với những
người bạn cùng tu, họ chính là bậc thiện tri thức, tại sao chúng ta phải gần
gũi bậc thiện sĩ? Để được nghe chánh pháp. Sau khi được nghe xong, cần phải hiểu
đúng đắn, chính là như lý tư duy. Nhờ tư duy quán sát nên hiểu Phật pháp một cách
rốt ráo, rồi nương vào lời dạy của Phật mà tu tập, y vào pháp mà thực hành.
Cho nên việc tu học Phật
pháp, chính là quá trình tu trí huệ. Nhưng đây không có ý chỉ tu trí huệ là đủ,
trong quá trình tu trí tuệ, cũng cần phải tu tập các pháp môn khác. Bởi vì nếu
chỉ tu phước hoặc chỉ tu huệ, thì không thể nào được viên mãn. Trí huệ và phước
đức, không thể thiếu một, như con chim và đôi cánh, như chiếc xe hai bánh,
nương vào nhau mà thành tựu, thì mới bay lên thật cao và đi xa vạn dặm.
Người tu học không những tăng
trưởng phước đức và trí tuệ, mà còn vun bồi tín tâm và bi tâm. Cần khắc ghi
trong lòng, công đức của Tam Bảo là bất khả tư nghị, chúng sanh muôn vàn đau khổ,
cần phải gánh vác chánh pháp, cứu độ chúng sanh, không học tập để hiểu biết, để
thoả mãn cái tâm ý của mình./.
(Trích từ:
Phước Huệ tuỳ thân- HT Ấn Thuận)
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét