QUAN ĐIỂM TẬP TỤC ĐỐT GIẤY TIỀN VÀNG MÃ
Hỏi: Tục lệ đốt vàng mã có phải là một phần của nghi lễ Phật giáo hay không, vì thấy các
nghi cúng trong Phật giáo thường thấy nhiều chùa và tư gia mỗi lần cúng tế là
có đốt vàng mã?
Đáp:
Trong nghi lễ Phật giáo chính thống thì không hề và không bao giờ có tập tục đốt
vàng mã. Tục lệ đốt giấy tiền vàng mã có nguồn gốc từ thời cổ đại trong xã hội
Trung Hoa. Nhà tư tưởng Vương Dư đời Đường cho rằng: “Từ thời nhà Hán, đã có tập
tục chôn tiền và đời sau lấy giấy thay tiền”. Theo niềm tin thuần phát của người
Trung Hoa thuở xưa thì người chết không mất hẳn mà biến thành ma, quỷ. Từ quan
niệm này, hình thành nên tín ngưỡng người chết cũng giống như người sống, tức cần
phải có những nhu yếu phẩm cần dùng trong cuộc sống. Cho nên sau khi chết đi
thì thân nhân quá cố sẽ chôn theo những vật dụng cần dùng trong đó có cả tiền bạc.
Khám phá từ các cuộc khai quật của các ngành khảo cổ đã xác quyết điều này. Tuy
nhiên, về sau, người ta thấy rằng chôn tiền và vật dụng thật thì quá lãng phí
nên dần dần hình thành quan niệm đốt tiền và đồ dùng bằng giấy để cho người chết
sử dụng.
Như vậy,
chúng ta đã xác quyết tục lệ đốt vàng mã
là tập tục của người Trung Hoa có nguồn gốc từ thời cổ đại. Tục lệ này ảnh hưởng
sâu sắc đến đời sống tinh thần của người dân Trung Hoa và các nước chiu ảnh hưởng
văn hoá Trung Hoa, trong đó có Việt Nam. Căn nguyên của tục lệ này là niềm tin
có một đời sống sau khi chết, cộng với lòng hiếu thảo, bổn phận và trách nhiệm,
ước mong được đầy đủ, sung túc của người sống đối với người chết. Khi Phật giáo
truyền vào Trung Hoa và Việt Nam, với truyền thống hiếu đạo, uống nước nhớ nguồn,
tri ân và báo ân của người con Phật cùng với sự tôn trọng tập tục của người dân
bản địa cho nên trong nghi lễ hiếu sự của người bình dân và thậm chí với một số
Phật tử tại gia thiếu chánh tín còn có tục lệ đốt vàng mã.
Phật
giáo không có truyền thống và tập tục đốt giấy tiền vàng mã cho người chết. Vì
theo Phật giáo, người chết chậm nhất là sau 49 ngày sẽ thác sinh vào một cảnh
giới tương ứng với nghiệp đã gây tạo. Ở mỗi cảnh giới khác nhau, sự thọ dụng của
chúng sinh trong các cảnh giới ấy hoàn toàn sai biệt. Do đó, dùng những vật dụng, tiền bạc của cõi người để
cung cấp cho chúng sanh ở cõi khác là điều không thể. Xác định động cơ của việc
đốt vàng mã xuất phát từ tâm thành kính, lo lắng, thương tưởng của người sống đối
với người đã quá vãng, mong muốn cho người chết được đầy đủ an vui. Nhưng Phật
giáo xem sự thể hiện “hiếu đạo” bằng việc
đốt vàng mã là một hủ tục, vì việc làm ấy hoàn toàn vô ích đối với người đã chết
chỉ lãng phí tiền của, công sức, gây ô nhiễm môi trường, hoả hoạn mà thôi. Đối
với các Phật tử chưa thông suốt giáo lý, quen với tập tục dùng vàng mã trong
tang lễ và hiếu sự, Phật giáo không cấm đoán triệt để, chỉ động viên, khuyến
khích từ bỏ hoặc thay thế bằng các việc làm cụ thể và có lợi ích thiết thực hơn
như phóng sinh, bố thí, cúng dường v.v..rồi hồi hướng phước đức cho người chết.
Đây mới là làm “âm dương lưỡng lợi” theo quan điểm Từ bi và Trí tuệ của đạo Phật./.
Lời
bàn thêm: Theo quan điểm của đạo Phật
người chết sau khi 49 ngày sẽ đi tái sanh ở một cõi khác, chứ không hẳn ở một dạng
có đời sống tâm linh thường hằng như người thế gian suy nghĩ. Có thể sinh lại làm người, có thể sinh cõi trời,
có thể sinh làm súc sinh như: Trâu bò, chó, mèo v.v.. hay địa ngục, ngạ quỷ.
Người sau khi chết, tuỳ theo nghiệp lực đã tạo mà sẽ tái sinh vào sáu cõi, Trời,
Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ và súc sanh.
Trong sáu loài chúng sanh, duy chỉ có loài quỷ tức ma có khả năng hưởng
thọ đồ hiến cúng của người sống, còn lại thì không tiếp nhận được. Vì hoàn cảnh
và cuộc sống họ khác, nên không dùng được những vật dụng người cúng. Ví dụ cúng áo quần xe cộ, thì loài súc sanh
không thể dùng được, cúng bánh trái thức ăn, có người đã tái sanh làm người ở
nơi khác cũng không dùng được. Vì thế các tập tục đốt vàng mã, xây mộ xây lăng
cho người đã chết chỉ tốn kém mà không có ích lợi gì cả./.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét