PHIỀN NÃO ĐƯỢC ĐOẠN SẠCH, KHÔNG TIẾP TỤC NGHIỆP MỚI,
SẼ KHÔNG CHIÊU CẢM QUẢ BÁO SANH TỬ
Nghiệp lực quá khứ vô lượng vô biên, hiện tại lại
không ngừng tạo tác, dù cho đời sau sanh ở nhân gian hoặc sanh lên cõi Trời, đến
khi quả báo hết, vẫn có thể đoạ vào ba đường ác. Vậy phải làm thế nào mới có thể giải thoát triệt để khỏi sanh tử luân hồi?
Nghiệp
đã tạo rồi, nếu không có sự hỗ trợ phiền não, cũng sẽ không chiêu cảm quả báo
sanh tử. Phiền não đối với nghiệp thiện ác có tác dụng “dẫn phát nghiệp” và “tưới
tẫm nghiệp”. Do vậy, nếu phiền não được đoạn diệt, sẽ không tiếp tục tạo nghiệp
mới, khi ấy vô biên nghiệp lực vốn tạo trong quá khứ cũng mất đi khả năng chiêu cảm quả báo. Đối với vô lượng
vô biên nghiệp thiện và nghiệp bất thiện trong quá khứ, bây giờ không nên lo lắng,
điều mà đáng chú ý là phải nỗ lực tu tập như thế nào để đoạn trừ phiền não,
không tạo ngiệp mới, chứng đắc đạo lý chân thật.
Khi
đã chứng đắc đạo lý chân thật, đoạn trừ phiền não, ngay đó cũng giải thoát khỏi
khổ sanh tử. Như trong kinh Tạp A hàm đề cập “Đệ tử của Thế Tôn đầy đủ chánh kiến,
thấy rõ đạo lý chân thật, chứng đắc hiện quán, vị ấy ngay đó đã đoạn đã biến
tri, đã chặt đứt gốc của phiền não, như cây đa la đã bị chặt đứt ngọn không thể
nào sống lại được. Những khổ đã đoạn trừ, thì rất nhiều đến vô lượng, như nước
trong hồ lớn, các khổ còn sót lại thì rất ít, như nước dính trên đầu sợi lông”.
Nghiệp
đã tạo tác trong quá khứ có thể chiêu cảm đến quả báo sanh tử thì rất nhiều,
khó tính đếm được. Nhưng một khi tu tập chứng đắc được giáo nghĩa chân thật, có
khả năng tiến đến chặt đứt cội gốc sanh tử. Do vì phiền não đoạn diệt nên mất
khả năng chiêu cảm quả báo. Ví như hồ nước lớn đã cạn rồi chỉ còn sót lại rất
ít nước.
Đoạn
trên nói rằng, nghiệp quá khứ dù có nặng bao nhiêu không quan trọng, không lo lắng,
điều quan trọng ngay trong hiện tại, chúng ta siêng năng tinh tấn tu tập đoạn
trừ phiền não, thì nghiệp quá khứ sẽ chuyển hoá từ nặng sang nhẹ, từ nhẹ đến hết.
Hoặc người tu tập chứng đắc nghĩa lý chân thật, thì bao nhiêu nghiệp báo liền
tiêu trừ. Ví như người mắc nợ, không tạo thêm nợ mới, thì nợ cũ có khả năng trả
từ từ. Hay người có lợi tức lức thì trả một lần là xong, ví như người chứng đạo,
khi chứng đạo thì mọi phiền não liền chấm dứt, quả báo sanh tử cũng không còn. Ví như người ngủ chiêm bao, thấy cảnh trong mộng
hãi hùng, người đó tự mình thức giấc, hay được người khác thức giấc, thì cảnh
hãi hùng trong chiêm bao liền mất.
Từ
nhân đến quả phải trải qua duyên, quả mới hình thành. Khi duyên được đoạn tận
thì nhân quá khứ không còn cơ hội phát triển, quả tương lai sẽ không sanh. Ví
như hạt giống bỏ xuống đất nếu không được tưới tẩm bởi nước, thì hạt giống sẽ
không nẩy mầm. Ví như cây bị chặt hết rễ, gốc cây không thể phát triển, trước
sau cây sẽ chết.
Vấn đề
tu tập là làm phát triển duyên tốt càng nhiều sẽ giảm trừ duyên xấu ác ở quá khứ
và không sanh quả ác hiện tại. Chúng ta sẽ có cuộc sống bình an giải thoát,
không cầu mà có.
Nghiệp
báo đã tạo, muốn hoá giải, trước hết không tạo thêm ác nghiệp, mà tạo thiện
nghiệp, siêng năng sám hối nghiệp báo tội cũ. Một mặt sám hối, một mặt bỏ ác
hành thiện, thì quả báo xấu ác sẽ từ từ hoá giải. Nếu không sám hối, không hành
thiện, tội cũ không trừ, tội mới càng tăng.
Vua A
Xà Thế phạm tội ngũ nghịch, giết cha để soán ngôi. Sau khi được gặp Phật nghe
Phật thuyết pháp, sám hối, tội nặng chuyển thành nhẹ. Khi vua A Xà Thế trở về rồi,
Đức Phật nói với chúng Tỳ kheo rằng: “Nếu như vua A Xà Thế không giết cha, ngay
chỗ này sẽ đắc được pháp nhãn thanh tịnh, nay vua A Xà Thế đã biết sám hối tội
lỗi, tội lỗi có thể giảm dần, thoát khỏi tội nặng”. Vua A Xà Thế không thể ngộ
nhập chánh pháp, do vì bị chướng ngại là quả báo trọng nghiệp giết cha. Tuy
nhiên người tạo nghiệp chướng có khả năng sám hối tội lỗi. Vì thế pháp sám hối
là pháp rất quan trọng đối với người tu tập. Hành giả tu tập nếu không có pháp
sám hối, thì sự tu tập khó thành công. Kinh Đại thừa chú trọng niềm tin, Pháp
sám hồi nghiệp chướng đã trở thành pháp phương tiện cho sự tu tập./.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét