SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HỆ PHÁI
NGUYÊN THUỶ VÀ HỆ PHÁI KHẤT SĨ
Đáp: Giáo hội Phật giáo Việt Nam
có hai hệ phái chính là hệ phái Bắc tông và hệ phái Nam tông. Hệ phái Nam tông
có hai hệ, hệ phái Nam tông Khmer và hệ phái Nam tông người kinh. Còn hệ phái
Khất sĩ dung hoà giữa Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam tông.
Trong
Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay, hệ phái Bắc tông là một hệ phái lớn, chiếm
ưu thế và có nguồn gốc lâu đời, còn có nhiều hệ phái khác đang ngày một phát triển góp phần xây dựng hoàn chỉnh ngôi
nhà Phật giáo Việt Nam. Trong đó, Nguyên Thuỷ và Khất sĩ là hai hệ phái khá lớn,
với tốc độ phát triển nhanh và có địa bàn hoạt động rộng rãi ở các tỉnh miền
Trung và miền Nam.
Trước
khi đi vào việc phân biệt sự tương đồng và khác biệt giữa hệ phái Nguyên Thuỷ
và Khất sĩ, thì minh định về Bắc tông và Nam tông. Theo quan điểm của các nhà học
Phật trên thế giới hiện nay, khái niệm Đại thừa và Tiểu thừa có tính cách phân
biệt và hẹp hòi, cần được thay đổi bằng khái niệm Bắc tông hay Bắc truyền
(Mahayana) và Nam tông hay Nam truyền (Theravada). Xuất phát từ Ấn Độ, Phật
giáo được truyền xuống hướng Nam, hình thành dòng Phật giáo Nam tông, bao gồm
Phật giáo các nước Sri Lanka, Myanmar,
Thái Lan, Lào và Campuchia. Cũng từ Ấn Độ, Phật giáo được truyền lên phía Bắc,
hình thành dòng Phật giáo Bắc tông, bao gồm Phật giáo các nước Trung Quốc, Triều
Tiên, Mông Cổ, Tây Tạng, Nhật Bản và Việt Nam.
Riêng
tại Việt Nam, từ thập niên 30 (1930) của thế kỷ 20 trở về trước, chỉ thuần Phật
giáo Bắc tông. Đến năm 1939, Phật giáo Nguyên thuỷ Việt Nam hình thành. Những
người Việt Nam đầu tiên phát động phong trào nguyên cứu Phật giáo Nguyên thuỷ
là cụ Nguyễn Văn Hiểu, Văn Công Hương và bác sĩ Lê Văn Giảng. Tiếp đến những vị
cao Tăng tu theo Phật giáo Nguyên thuỷ lần lược xuất hiện. Đó là Hoà thượng Thiện
Luật, HT Huệ Nghiêm, HT Bửu Chơn và HT Hộ Tông. Chư tôn Hoà thượng kể trên cùng
với sự trợ duyên của các sư tu theo Phật giáo Nguyên thuỷ, người Việt gốc Khmer
như sư Miên, Sư Sinh, và Sư Thạnh là những vị cao tăng đầu tiên đã đặt nền móng
xây dựng Phật giáo Nguyên thuỷ tại Việt Nam.
Hệ
phái Khất sĩ được Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng, chính thức thành lập Giáo hội
vào năm 1946. Xuất phát từ chùa Linh Bửu, làng Phú Mỹ, Mỹ Tho, Đoàn Du tăng Khất
sĩ trải qua bao thăng trầm, đến nay trở thành một hệ phái Phật giáo lớn mạnh,
có Tăng số đông đảo và là một thành viên của GHPGVN. Tuy nhiên, ngoài hệ phái
Khất sĩ của Tổ Minh Đăng Quang, còn có các phái Khất sĩ khác như Khất sĩ của Đại
sư Huệ Nhật, Khất sĩ của Mẫu Trầu và Khất sĩ có nguồn gốc từ Tổ Minh Đăng Quang
nhưng không thuộc Trung ương hệ phái Khất sĩ.
Về
pháp phục, cả hai hệ phái Nguyên thuỷ và Khất sĩ đều dùng pháp y truyền thống
có từ thời Phật. Cả hai hệ phái đều xem trọng pháp tu khất thực để tự nuôi sống
và hành đạo. Do vậy, có phần khó khăn cho người Phật tử khi nhìn vào y phục để
phân biệt hệ phái của một vị sư. Tuy nhiên, vẫn có sự khát biệt cơ bản về màu sắc
trong pháp y của hai hệ phái. Đa phần chư Tăng của hệ phái Nguyên thuỷ sử dụng
pháp y với gam màu đất nung (hoả hoàng) hay màu đỏ sậm, còn chư Tăng hệ phái Khất
sĩ thường mang pháp y màu vàng như màu của pháp phục trong phần lớn chư Tăng hệ
phái Bắc tông.
Một đặc
điểm quan trọng khác để phân biệt là hệ phái Nguyên thuỷ không có chư Ni. Tuy
có nữ người xuất gia, cạo tóc và đắp y nhưng là bạch y (y màu trắng của người
cư sĩ). Hệ phái Khất sĩ thì có Ni giới, chư Ni khất sĩ đắp y vàng và thường phục
cũng màu vàng..
Đối với
giáo lý cơ bản thì tất cả hệ phái Phật giáo đều lấy việc tu tập Giới - Định - Huệ
làm nền tảng. Kinh điển y cứ của hệ phái Nguyên thuỷ là hệ thống kinh luận Nam
truyền (Nikaya), thuộc ngữ hệ Pali. Đối với hệ phái Khất sĩ thì đặc biệt hơn,
chủ trương dung hội hai nền giáo lý Bắc truyền và Nam truyền, nên ngoài việc y
cứ bộ Chơn lý do Tổ Minh Đăng Quang trước tác, còn có sử dụng cả hai tạng kinh
Bắc truyền và Nam truyền làm cơ sở nghiên cứu giáo lý và ứng dụng tu học.
Đối với
pháp môn tu tập, cả hai hệ phái Nguyên thuỷ và Khất sĩ đều lấy thiền định làm
căn bản. Tuy nhiên, trong việc tụng kinh, hệ phái Nguyên thuỷ có truyền thống tụng
đọc kinh Phật bằng tiếng Pali, giống như hệ phái Bắc tông thường tụng kinh bằng
âm Hán-Việt. Hệ phái khất sĩ thì tụng kinh bằng tiếng Việt, những kinh nầy đa
phần được diễn bằng thơ, có vần điệu nhằm dễ đọc tụng.
Mặt
khác, để dễ dàng phân biệt hai hệ phái này là vấn đề thọ thực. Cùng chủ trương
khất thực nhưng chư Tăng hệ phái Khất sĩ ăn chay, chỉ dùng thực phẩm có nguồn gốc
thực vật. Trong khi đó, chư Tăng của hệ phái Nguyên thuỷ không có chủ trương ăn
chay, chỉ ăn ngọ, sau buổi trưa thì không dùng bất cứ thực phẩm nào.
Trên
đây là một vài khác biệt căn bản nhằm giúp phân biệt và nhận diện dễ dàng giữa
hai hệ phái Nguyên thuỷ và Khất sĩ. Tuy có khác biệt về hình thức nhưng nội
dung tu tập vẫn thuần nhất là hướng đến giải thoát. Đối với người Phật tử, tu học
theo hệ phái nào là vấn đề nhân duyên. Ai có duyên với hệ phái nào thì quy y và
tu học theo hệ phái ấy. Không hề có sự phân biệt cao thấp hay lớn nhỏ trong vấn
đề tu học giữa các hệ phái Phật giáo. Điều quan trọng là sự nỗ lực tu tập của
người Phật tử theo lời Phật dạy, để được hạnh phúc và an lạc. Bởi vì tất cả hệ
phái đều có vai trò và vị trí bình đẳng trong GHPGVN./.
(Trích Phật pháp bách vấn tập
I, 23/11-2024)
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét