ĐẠO PHẬT TRONG CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY
1-Hiểu và hành của người học Phật không thể tách rời cuộc sống hằng
ngày.
Làm
thế nào để đưa Phật pháp vào ứng dụng khắp trong cuộc sống hằng ngày. Đó là trọng
tâm của hoằng pháp mà Phật giáo chủ trương trước sau như một.
Chúng
ta biết rằng, giáo pháp mà Đức Thế Tôn hướng dẫn cho mọi người không giống với
thần giáo mê tín, tức có tin không có hiểu. Đạo Phật là đạo đề cao lý trí, đức
hạnh và nhân bản. Vì vậy, nội dung giáo pháp mà Đức Phật dạy không nằm ngoài việc
điều phục, tịnh hoá và đạt đến sự giải thoát tự tại cho thân tâm. Tin Phật, học
Phật không phải hướng ngoại tìm cầu, mà phát khởi từ sự tự tu trì nơi nội tâm của
mỗi người để thực hiện lý tưởng tự lợi và lợi tha. Nếu có thể y cứ vào lời Phật
dạy, rồi tin nhận làm theo thì đương nhiên sẽ đưa Phật pháp vào ứng dụng rộng
khắp trong cuộc sống hằng ngày.
Để
tin nhận và tu tập theo lời Phật dạy, nhất định phải có chánh tri và chánh kiến
xác thực, tâm nguyện thuần chánh không ngừng tăng trưởng từ bi và trí tuệ.
Có điều,
đạo Phật trong một thời gian dài nhập thế, từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc, để
thích ứng với thế tục, dùng phương tiện dẫn dắt chúng sinh độn căn, có khuynh
hướng thần bí, hình thức, tri thức; vì vậy mà sự hành giải của người học Phật dần
dần có chiều hướng tách rời cuộc sống hằng ngày, đây thật là vấn đề đáng để
chúng ta lưu tâm.
2-Tịnh hoá thân tâm, giải
thoát mới gọi là đạo trong cuộc sống hằng ngày.
Nên hiểu rằng, “Đưa Phật pháp
vào ứng dụng rộng khắp trong cuộc sống hằng ngày”, không hẳn là ngày ngày phải tụng
kinh, lễ sám, cúng thí, ngày ngày nghiên
cứu kinh điển, giảng kinh, thuyết pháp, trước tác, niệm Phật, trì chú, ăn chay,
phóng sanh; đi khắp nơi tham dự pháp hội, bố thí cúng dường, hoặc xây dựng sửa
chữa tự viện, xây dựng học viện, làm công tác văn hoá từ thiện, hoặc ở am tranh
tu tập… Những việc ấy có thể tương ưng với đạo Phật, nhưng làm không khéo thì rất
dễ mang tính hình thức.
Nói về Phật giáo thời hiện đại,
thì các Phật sự mang tính hướng ngoại gần hai mươi năm trở lại đây rất thịnh
hành. Sự tin nhận, làm theo lời Phật dạy cần ứng dụng bằng việc điều phục, tịnh
hoá và đạt đến giải thoát cho thân tâm. Còn như hoằng pháp lợi sanh, làm văn
hoá, từ thiện, giáo dục, tổ chức các hoạt động quốc tế mà bản thân quên mất ý
nghĩa chân thật của việc tu tập thì cũng không thể nói là “đưa Phật pháp vào ứng
dụng rộng khắp trong cuộc sống hàng ngày”.
“Đưa Phật pháp vào ứng dụng rộng
khắp trong cuộc sống hàng ngày” cũng chính là tu học Phật pháp, như vậy mới có
thể phát khởi đức dụng điều phục, tịnh hoá và giải thoát thân tâm. Phật pháp
không phải là lý luận huyền bí khó nắm bắt, không phải là những sự thực hành thần
kỳ, quái lạ. Lời Phật dạy, người bình thường cũng có thể tiếp nhận và thực hành
được.
Đức Phật hướng về thân tâm của
chúng sanh, chỉ ra sự mê vọng trôi lăn và khả năng giải thoát chân thật, để từ
đó khuyến khích, dẫn dắt mọi người nắm bắt và thực hành con đường giải thoát.
3-Hiểu Duyên khởi, vô thường,
khổ, vô ngã, để được giải thoát.
Đức Phật hướng dẫn từ chân lý
nhân duyên sinh khởi nhau, nương tựa nhau mà tồn tại để lý giải thế gian, xử lý
thế gian. Dựa vào duyên khởi, Đức Phật dạy rằng: “Cái này có nên cái kia có,
cái này sinh nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt” cho nên không kẹt
vào hai bên (cực đoan), từ đó khai thị pháp trung đạo: Bất hữu bất vô, bất thường bất đoạn, bất nhất bất nhị, bất khứ bất lai, cho đến bất sanh bất diệt.
Những gì từ nhân duyên sinh
khởi thì cũng trở về nơi diệt cho nên gọi là “vô thường”. Vì vô thường nên
không thể đạt đến cứu cánh an ổn, đây chính là “khổ”. Vì “vô thường”, “khổ” nên
“vô ngã” (“ngã” là chân thực, thường, lạc). Chúng sanh không thể hiểu được thế
gian là duyên khởi, cho nên không thể hiểu đúng vô thường, khổ, vô ngã, vô ngã
sở, không đạt được Niết bàn giải thoát, đó gọi là “vô minh” (“vô minh” đại khái
được phân làm “bất tri khổ tập” và” bất tri khổ diệt”). Tất cả phiền não đều từ
vô minh sinh khởi.
Vì không hiểu đúng duyên khởi,
nên đều không triệt để, đây là pháp hữu lậu. Vì thế nên pháp sinh tử không ngừng
diễn ra. Còn như hiểu đúng duyên khởi, dựa vào pháp mà hành, nhận biết vô thường,
khổ thì sẽ sinh tâm “yếm ly” nhận biết “vô ngã”, “vô ngã sở” mà có thể “ly dục”
(ly phiền não) thì được giải thoát và chứng diệt (dừng lại ưu khổ của thân
tâm).
4-Dựa vào chánh tri, chánh kiến
để dẫn phát chánh tín.
Phật pháp chỉ ra thân tâm
duyên khởi dựa vào tâm thức làm chủ đạo mà khai thị giáo pháp trung đạo khổ tập
và khổ diệt. Người học Phật cần phải có chánh kiến thiết yếu này. Chánh kiến
không phải là tri thức mà là chuyển hoá chính xác tri thức thành hiểu biết của
bản thân, có chánh kiến thì sẽ có chánh tín.
“Tín”, “Tâm tịnh là
tín”, “như hạt thanh châu có công năng
làm cho nước đục trở thành nước trong”. Một niệm tịnh tín hiện tiền thì nhất định
không có phiền não, không có ưu khổ; nội tâm tràn đầy thanh tịnh, an định và hỷ
lạc. Người thực hành được như vậy mới gọi là để tử chân chính quy y Tam bảo.
“Tịnh tín” mà Phật pháp nhắc
đến không giống với “tín” của thế tục. Đối với những gì người khác nói ta thừa
nhận là xác thực, như vậy gọi là tin tưởng nhau. Đây chỉ là xác nhận, chẳng hạn như tin tưởng
rằng “một cộng một bằng hai”. Còn đối với những điều người khác cảm thấy có thiện
cảm, có sự đồng cảm, khẳng định tiếp nhận lời của họ, thông thường như vậy gọi
là tín ngưỡng, chẳng hạn như tín ngưỡng chủ nghĩa, tín ngưỡng lãnh tụ. Đây chỉ
là sự tin theo của thế tục. Thế tục thường hay nói tin “tin linh cảm” “tin vận
mệnh”, “tin phong thuỷ” v.v..đều không nằm ngoài hai kiểu tín ngưỡng đề cập ở
trên.
“Tịnh tín” mà Phật pháp nhắc
đến là nương tựa vào Tam bảo mà sinh khởi, được sự dẫn phát từ nội tâm, có cảm
giác thanh tịnh, hỉ lạc. Nhờ chánh tri, chánh kiến dẫn phát thông qua lý tính
cho nên tín tâm phát khởi từ đó an lạc hiện hữu. Điều này tuy gần với tín tâm của
nhất thần giáo, nhưng không rơi vào mê vọng cuồng nhiệt.
5- Chánh tín Tam bảo, thâm
tín nhân quả ba đời là nền tảng của người
học Phật.
Người theo đạo Phật ở phương
Đông tương đối đông. Phần nhiều, quý Phật tử tin Phật và tin chư Tăng (A la
hán, Bồ tát), nhưng tin pháp thì hầu như không nhiều. Vì phật tử không hiểu
pháp, không tin pháp cho nên không thể phân biệt được Phật, thần. Đối với Phật,
A la hán, Bồ tát, phần nhiều mọi người tín ngưỡng theo kiểu thần bí, dùng tâm
thái tin thần để sùng bái Phật.
Một mặt, tin tưởng vào thần lực
của chư Phật và chư hiền thánh tăng, cầu mong được gia hộ, mặc khác, đa số Phật
tử vì lợi ích thế tục của hiện đời và đời sau như sức khoẻ, sống lâu, phú quý,
gia đình yên vui, sự nghiệp phát đạt, không rơi vào ác đạo v.v…mà biểu hiện các
hành vi mong cầu tiêu tai giảm nạn, cầu tăng phước tăng thọ. Tuy nói rằng chư
tăng dùng phương tiện thích hợp để giáo hoá, nhưng nếu mãi thuận theo kiểu hướng
ngoại cầu khẩn mà lại không hướng nội để kiểm điểm, như vậy tịnh tín không thể
sinh khởi thì làm sao có thể đưa Phật pháp vào ứng dụng rộng khắp trong cuộc sống
hằng ngày?
Hiểu thấu đáo duyên khởi để từ
đó có thể sinh tâm nhàm chán, ly dục, diệt độ; làm được như vậy trong thời đại
hướng ngoại tìm cầu này, đương nhiên là không dễ. Hiểu rõ pháp duyên khởi cùng
nương tựa, cùng tồn tại, tin sâu đạo lý làm việc thiện hưởng quả lành, làm việc
ác chịu quả khổ, là khế hợp với luật nhân quả ba đời tất yếu, cũng là tín tâm cần
có của người học Phật.
Thuyết nghiệp quả thiện ác có
đặc điểm là: “Tự lực tạo tác, chẳng phải tha lực”, “cơ hội như nhau, không có đặc
thù” “phía trước sáng sủa, không phải tuyệt vọng”, “thiện ác có hồi đáp, chẳng
phải không có quy luật”. Người tin sâu nhân quả thiện ác luôn dựa trên nền tảng
của chánh kiến. “Hành vi tương ưng với Phật pháp trở thành sức cải thiện quá khứ,
khai mở vị lai”. Không oán trời, không trách người, “tận tâm nỗ lực hướng về
phía trước, không vì gặp phải việc hiện tại không như ý mà dao động, luôn quyết
tâm bỏ ác làm thiện”. Tin sâu nhân quả và ứng dụng niềm tin ấy vào trong cuộc sống
hằng ngày là đã biểu hiện được tinh thần của Phật pháp.
Thuyết nhân quả ba đời của đạo
Phật, mọi người còn nửa tin nửa ngờ, còn có tâm lý cầu may, cầu lợi. Phần nhiều
không thực hành theo giáo pháp, thực hiện con đường chánh hạnh bỏ ác làm lành của
nhân sinh. Những tập tục như xin xăm, bói quẻ, xem phong thuỷ, ngày, giờ tốt xấu,
nhương sao giải hạn v.v… chúng xâm nhiễm nghiêm trọng vào trong Phật giáo, lại
được sự đồng tình thuận ý của đa số chư Tăng ni, chư vị trưởng lão, đại đức. Sự
hướng ngoại khẩn cầu trong Phật giáo, cho đến những hành vi tương tự như vậy của
người mong được phù phép đều là mê vọng và không thuần chánh. Chánh tín Tam bảo,
thâm tín nhân quả là nền tảng của sự tu học Phật, cho nên chỉ có chánh tín và bài
trừ mê tín không thuần khiết thì Phật pháp mới có được ứng dụng rộng khắp cuộc
sống hằng ngày.
Nói đến hạnh, thì hạnh của
Thanh văn là bát chánh đạo, hạnh của Bồ tát là lục ba la mật và tứ nhiếp. Nói một
cách tổng thể, hạnh tự lợi lấy “giới, định, tuệ” làm căn bản; hạnh lợi tha lấy
“thí, giới, nhẫn” làm căn bản./.
(Trích từ: Phước Huệ tuỳ thân- HT Ấn
Thuận)
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét