NGUỒN GỐC VÀ CHỦNG LOẠI TRÀNG HẠT CÓ TỪ ĐÂU?
Đáp:
Các vị Tăng Ni thường hay cầm xâu chuỗi trên tay, hay đeo trên cổ, có chuỗi ngắn
chuỗi dài. Nguồn gốc từ đâu, và ý nghĩa
các loại xâu chuỗi ngắn dài như thế nào?
Xâu
chuỗi hay còn gọi là tràng hạt, là một pháp khí có tính cách phương tiện, trợ lực
cho người tu tập dễ dàng đi đến chuyên nhất tâm ý. Về khởi nguyên, Đức Phật bảo
vua Ba Lưu Li rằng “Nếu nhà vua muốn diệt phiền não chướng, thì phải xâu 108 hột
Mộc hoạn tử, thường mang theo mình, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc nằm, luôn luôn phải
hết lòng xưng niệm danh hiệu Phật đạo (Phật), Đạt ma (Pháp), Tăng già (Tăng),
không để cho tâm ý phân tán”. Ở Trung Hoa, khoảng 800 năm sau khi Phật nhập diệt, đã thấy nhiều kinh điển đề cập đến việc sử dụng xâu
chỗi rồi. Trong “Tục Cao tăng truyện” chép: “nhiều người lần chuỗi, miệng đồng
niệm danh hiệu Phật”
Như vậy,
tràng hạt xuất phát từ lời dạy của Đức Phật, chuỗi hạt bắt đầu xuất hiện trong
hàng ngũ những loại pháp khí thường được sử dụng trong nghi lễ, trong sự tu tập
của Phật giáo. Đặc biệt nhất, khi ngài Tuệ Viễn đề xướng pháp môn niệm Phật thì
ngay đây, xâu chuỗi dường như là vật bất ly thân của nhiều hành giả miên mật tu
hành theo tông Tịnh Độ.
Chuỗi
tràng hạt thường thấy các vị Tăng Ni sử dụng có kích cỡ khác nhau, dài ngắn đa
dạng đều có căn nguyên của nó. Theo kinh “Mộc Hoạn Tử” khuyên làm chuỗi 108 hạt.
Căn cứ vào bộ kinh “Đà La Ni Tập”, quyển 2, phẩm “Tác Châu Pháp Tướng” (Đại tạng
kinh, tập 18) thì nếu ra có 4 loại chuỗi: 108 hạt, 54 hạt, 42 hạt và 21 hạt.
Căn cứ vào kinh “Văn Thù Nghi Quỹ” phẩm “Sổ Châu Nghi Tắc” thì cho rằng: chuỗi
bậc Thượng là 108 hạt, bậc Trung 54 hạt, bậc Hạ là 27 hạt. Chuỗi tối thượng là
1.080 hạt. Theo các kinh văn vừa nêu, số lượng của những hạt trong xâu chuỗi
hàm chứa một ý nghĩa nhất định. Nếu xâu chuỗi dài, thì thường 108 hạt, biểu thị
cho việc cầu chứng 108 pháp môn mà đoạn trừ được 108 phiền não. Loại 54 hạt là
biểu thị cho 54 cấp vị tu hành của hàng Bồ tát, tức Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh,
Thập hồi hướng, Thập địa và Tứ thiện căn của Nhân địa (tên khác của Tứ gia hạnh).
Chuỗi 42 hạt, là biểu thị cho 42 cấp vị
tu hành của hàng Đại thừa Bồ tát, tức Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập
địa và thêm hai quả vị Đẳng giác, Diệu giác. Chỗi 21 hạt, biểu thị cho Thập địa,
Thập ba la mật và quả vị Phật. Chuỗi 14 hạt, biểu thị cho 14 pháp Vô uý của Bồ
tát Quán Thế Âm. Tuy có khác biệt như thế, nhưng thông thường, có hai loại chuỗi
được sử dụng mang tính phổ thông hơn cả, đó là loại 18 hạt và 108 hạt.
Về chất
liệu, theo kinh văn thì có thể sử dụng nhiều loại vật liệu như vàng, bạc, đồng,
mã não, hạt Bồ đề, hạt Kim cang…đều có thể sử dụng để làm chuỗi. Gần đây, với
những thành tựu của ngành vật liệu mới, đã có nhiều loại chuỗi rất đẹp được chế
tác từ các vật liệu này. Mặc dù vậy, số lượng các hạt và cách thức kết một xâu
chuỗi thì luôn giống nhau. Tức phải đúng số lượng như vừa nêu và ngoài ra còn
có một hạt chuỗi lớn - còn gọi là Mẫu Châu, Đạt Ma Châu - thống nhiếp tất cả những
hạt chuỗi còn lại. Căn cứ vào kinh “Kim Cang Đảnh Du Già Niệm Châu), chép: Các hạt chuỗi là biểu thị cho đức Quan Thế
Âm, còn Mẫu Châu là biểu thị cho Đức Phật Vô Lượng Thọ, hoặc biểu thị cho Phật
quả Viên mãn. Cho nên, lúc lần đến hạt Mẫu Châu (hạt lớn ở đầu chuỗi) thì không
được vượt qua, phải xoay ngược trở lại mà lần. Nếu không như thế thì phạm phải
cái tội trái vượt chánh pháp (việt pháp tội).
Việc
sử dụng chuỗi, như đã trình bày, mục đích lớn nhất là đem đến cho hành giả sự
chuyên nhất tâm ý. Nếu theo pháp môn Tịnh Độ, hành giả vận dụng xâu chuỗi để nhớ
số lượng Phật hiệu mà mình đã niệm. Nếu trì chú, thì số lượng những hạt đã lần
cho phép hành giả biết rõ các biến chú mà mình đã trì. Ngoài ra xâu chuỗi còn
là một trong những pháp khí mang tính chất biểu trưng cho giáo lý giải thoát, cũng như chiếc y vàng và
những vật dụng thân thiết gắn kết chặc chẽ trong đời sống của người tu sĩ. Do vậy,
sẽ không có gì ngạc nhiên khi thấy quý thầy, cô thường hay lần chuỗi khi đang tụng
kinh ở chùa, khi đang hội họp, khi đang lo công việc “ứng phú” (tang ma, hiếu sự)…
Vì khi có xâu chuỗi trong tay, sự chuyên nhất tâm ý sẽ trở về và quý thầy, cô
lúc đó sẽ hiện thân giải thoát để hoàn thành Phật sự.
Là một
người Phật tử, bạn có thể trang bị cho mình một xâu chuỗi để dùng khi hành lễ.
Tuy nhiên, ngoài những giờ phút tu tập, không nên cầm, nắm chuỗi khi đang lao
tác hay vào những nơi bất tịnh. Mỗi khi
lần chuỗi, hay nắm cầm xâu chuỗi giúp hành giả đưa tâm về chánh niệm với câu Phật
hiệu. Vì vậy, xâu chuỗi có công dụng ghi nhớ số danh hiệu Phật đã được niệm, lại
còn giúp chuyên nhất tâm ý, giữ được chánh niệm./.
Phần giải thêm: Có nơi giải thích rằng: Thông dụng có hai loại
tràng hạt 108 hạt và 18 hạt. 108 hạt dụ cho 108 phiền não, 18 hạt biểu trưng
cho 18 giới. 18 giới tạo ra bởi 6 căn, 6 trần và 6 thức.
Sáu căn là: 1/Nhãn căn, 2/
Nhĩ căn, 3/Tỷ căn, 4/Thiệt căn, 5/Thân căn và
6/ Ý căn.
Sáu trần: Sắc trần, Thanh trần,
Hương trần, Vị trần, Xúc trần và Pháp trần.
Sáu thức: Nhãn thức, Nhĩ thức,
Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, và Ý thức.
(cái biết của mắt, của tai, của mũi, của lưỡi, của thân và của ý).
Sắc và Trần tiếp xúc nhau
phân biệt bởi thức tạo ra ba nghiệp của Thân nghiệp, Khẩu nghiệp và Ý nghiệp. Từ ba nghiệp tạo ra phiền não tội chướng.
6 x 3= 18; 18 x 3 = 54;
18 x 6 =108.
Khi
niệm Phật, căn, trần, thức được đưa về một niệm, một niệm Phật sẽ dừng nghĩ ba nghiệp, ba nghiệp dừng nghĩ thì
nghiệp chướng tự lắng trong, tội chướng tự tiêu trừ.
(Trích Phật pháp bách vấn tập I)
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét