SỰ TỐT ĐẸP NHẤT TRÊN ĐỜI LÀ SỰ
TU ĐẠO. NHƯNG RẤT ÍT NGƯỜI TU HÀNH, TRONG MỘT VẠN NGƯỜI THÌ CÓ MỘT VẠN NGƯỜI
KHÔNG TU HÀNH, THẬT LÀ KỲ LẠ! DANH LỢI
LÀ VẬT NHỎ AI CŨNG THÍCH - SINH TỬ LÀ VIỆC LỚN CHẲNG AI MÀNG - THANH TỊNH LÀ
PHƯỚC CHẲNG AI HƯỞNG - PHIỀN NÃO THỊ PHI AI CŨNG THAM. BẠN XEM CÓ KỲ LẠ HAY
KHÔNG!
Pháp ngữ:
Hoà thượng Tuyên Hoá
TỪ BI LÀ ĐẠO ĐỨC CĂN BẢN CỦA PHẬT GIÁO
Từ bi
là đạo đức căn bản của Phật giáo, là tâm của chư Phật và chư Bồ tát. Bồ tát nhất
cử nhất động đều không thể thiếu từ bi, tất cả việc làm đều lấy từ bi làm động
lực.
-
Phật giáo lấy từ bi làm đạo đức căn bản.
“Từ bi là cội gốc”, câu nói này đúng và
xác thực với cốt lõi của Phật giáo Đại thừa, biểu đạt đạo đức chân thật của Phật
giáo. Là tín đồ của Phật giáo Đại thừa, đối với điều này cần phải tư duy cẩn thận,
lập trường vững chãi. Đứng ở góc độ tu tập của Bồ tát, trong kinh nhiều lần đề
cập rằng: “Đại bi là đứng đầu”, “Đại bi là căn bản”. Đứng ở vị trí tu tập đã thành tựu Phật quả, trong kinh nói rằng: “Chư Phật Như Lai lấy tâm đại bi làm thể”.
Trong luận đề cập: “Tâm của chư Phật là
tâm đại từ bi”. Trong kinh và luận đều
thống nhất cho rằng cốt lõi của hành quả Đại thừa không phải cái gì khác, chính
là tâm từ bi. Nếu tách lìa tâm từ bi tức không phải Bồ tát, cũng không có Phật.
Và cũng có thể nói không có tâm từ bi thì Phật giáo không tồn tại, Phật giáo dựa
vào tâm từ bi mà phát triển.
Tông
chỉ của Đại thừa là như vậy, nhưng các Thanh văn là những vị chú trọng chuyên “lợi mình” có thể không đồng ý với điều
này. Kỳ thật, trong ba tạng kinh điển mà hành giả Thanh văn cùng thừa nhận, Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni cũng xác nhận là như vậy.
Căn cứ
hành trạng của Đức Phật Thích Ca để thảo luận, động lực đầu tiên khiến cho Ngài
phát tâm tu đạo chính là sự cảm nhận cảnh
tượng diễn ra trong buổi lễ hạ điền. Thái tử Tất Đạt Đa (tức Đức Thế Tôn) được
sinh ra và lớn lên trong hoàng cung, hiếm có cơ hội quan sát người nông dân cày
cấy. Vào buổi lễ hạ điền, Thái tử đã tận mắt chứng kiến họ làm việc dưới cái nắng
gay gắt, bụng đói, khát nước, mệt nhọc vất vả, nhưng vẫn không được nghỉ ngơi,
nhìn thấy trâu cày bị roi quất, cổ bị ách đè, kéo nặng mà vẫn phải đi không dừng
nghỉ. Dưới luống đất cày vừa mới xới lên, có vô số côn trùng bị chim đua nhau đến
rỉa ăn. Nhìn thấy con người, trâu và côn trùng đều khổ. Chúng sanh tàn sát lẫn
nhau, nỗi vất vả của người nông dân, đã khắc hoạ cảnh tượng khốc liệt của thế
gian trong tâm trí Ngài.
Trong
tâm trí của Thái tử Tất Đạt Đa dâng lên nỗi thương xót thấm thía sâu xa, khiến
cho Ngài nghĩ đến việc cầu đạo để giải thoát khỏi thế gian. Trong thời điểm này
chỉ nghĩ cho riêng mình. Sau đó, Thái tử lại đi dạo, tận mắt thấy cảnh sinh,
già, bệnh, chết. Ngài hiểu được con người
phải trải qua những khổ đau như vậy, bản thân mình cũng không thể nào tránh khỏi. Tất cả chúng sanh đều chịu đựng hoặc đã trải qua đau thương trong hành trình
tồn tại. Đối với điều này, nếu chỉ nghĩ riêng cho mình, đó là tâm nhàm chán cảnh
khổ của Thanh văn, nếu không vì bản thân mình mà còn nghĩ đến tất cả chúng
sanh, đó là lòng thương yêu rộng lớn của Bồ tát.
Đức
Phật không nghĩ vì bản thân, khi ngồi dưới cội bồ đề chứng đạo quả, Ngài thấy
rõ được bản chất của chúng sanh. Ngài đi dọc theo hai bờ sông Hằng, đến khắp mọi
nơi chuyển bánh xe pháp, đánh trống pháp, thổi loa pháp, dùng pháp âm vi diệu
đánh thức chúng sanh đang chìm trong đau khổ. Cả cuộc đời hành đạo của Đức Thế
Tôn, mọi hành vi không tách rời tâm đại từ đại bi, tâm của Đức Phật lấy đại từ
bi làm gốc, không những chỉ đời này mà vô lượng kiếp quá khứ về trước, Đức Thế
Tôn thực hành Bồ tát hạnh, đã từng xả thân để cứu chúng sanh, thương xót chúng
sanh như thế nào! Hành giả Thanh văn cũng không thể không nói rằng Bồ tát đem
tâm từ để tu tập Ba la mật đa, khi tu tập viên mãn sẽ chứng quả vị Phật. Cho
nên, quá trình thực hành và chứng quả của Đại thừa tức là chỉ cho Bồ tát và Phật,
từ lúc bắt đầu cho đến khi viên mãn, cũng chỉ thực hành tâm từ bi. Nếu tách lìa
tâm từ bi thì làm sao có thể gọi là Đại thừa!
Trong
kinh điển Đại thừa ghi: “Bồ tát và Thanh
văn, tuy cùng là đệ tử của Đức Phật, nhưng Bồ tát được ví như con của đại phu
nhân trưởng giả, còn Thanh văn như con của người tuỳ thiếp của trưởng giả”.
Nghĩa là Bồ tát là con trưởng của Đức Phật,
kế thừa huyết thống thuần chánh cao quý của Đức Phật. Còn Thanh văn thì sao?
Các vị tuy cũng từ miệng Đức Phật sinh mà ra từ pháp sinh, nhưng không tránh khỏi
sự pha trộn dòng máu ti tiện hạ liệt. Dòng máu ti tiện hạ liệt này không phải
là gì khác, chính là sự thực hành tâm độc thiện, ẩn cư và khổ hạnh ở trong xã hội
Ấn Độ dương thời, mà Đức Thế Tôn đã tuỳ căn cơ giáo hoá.
Giáo
pháp Thanh văn thuộc thời kỳ Phật pháp, có một phần trí tuệ thâm sâu, nhưng
không thể đại diện cho Phật pháp thuần chánh và viên mãn vì một bộ phận của
giáo pháp này không hợp với ý của Đức Phật, đó là không có đại từ bi. Do vậy, trong Hoa Nghiêm tỷ dụ “người nhị thừa được sinh từ lưng của Đức Phật”. Do đây, nếu nghiêng
về pháp Thanh văn để bàn luận, chỉ xem tâm hạn của Thanh văn là Phật pháp, đây
không thể nói Phật pháp lấy từ bi làm nền tảng. Nếu căn cứ Đại thừa đại biểu
cho tinh thần của Đức Phật mà thảo luận, lấy từ bi làm gốc thì mới đúng với bản
chất của Phật giáo, tâm huyết của Đức Phật./.
(Trích: Phước huệ tuỳ thân- HT Ấn
Thuận, 08/11/2024 - 14/11/2024)
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét