THẾ NÀO LÀ TRI TÚC
Đáp:
Trong kinh dạy người tu học phải biết sống “tri túc”. Vậy nếu “sống tri túc” thì
có được buôn bán làm giàu không? Nếu cuộc sống có nhiều của cải, phương tiện
thì có đi ngược lại tinh thần “tri túc” hay không?
Tri
túc là biết đủ, biết an trú vào những gì mình hiện có, không vọng tưởng mong cầu.
Một đời sống tri túc đúng nghĩa là một đời sống an lạc, thanh cao vì không còn
khổ đau do sự chi phối của dục vọng. Thế nên trong Kinh Di Giáo Phật dạy: “Người
biết sống tri túc, tuy nằm trên đất cũng an lạc, người không biết sống tri túc,
tuy ở trên các cõi Trời nhưng lòng cũng không an ổn”. (Tri túc chi nhân, tuy
ngoạ địa thượng du vi an lạc. Bất tri túc giả, tuy xử thiên đường, diệc bất xứng
ý - Kinh Di Giáo).
Cần
phải thấy rằng, cứu cánh đích thực mà giáo lý Phật Đà nhắm đến là diệt hết mọi
khổ đau trong cuộc sống nhân sinh. Muốn thoát khỏi khổ đau thì điều kiện tiên
quyết đầu tiên là phải vượt thoát khỏi mọi dục vọng. Bởi lẽ, mầm mống cội nguồn
của tất cả nỗi khổ đau trong cuộc sống này đều bắt nguồn từ những tham muốn của
con người. Còn tham muốn là còn khổ đau, đó là chuỗi nhân quả tương liên tất yếu. Cho nên, việc loại bỏ dần
những tham muốn trong cuộc sống đời người đồng nghĩa với việc thực hành một đời
sống tri túc. Ở đây, tri túc là một pháp hành, trợ lực cho hành giả trên con đường
thăng tiến tâm linh và giải thoát khổ đau.
Tuy nhiên,
trên bình diện hiện thực của một chúng sanh với nhiều nghiệp duyên ràng buộc
nhưng đang hướng về Thánh đạo, lẽ cố nhiên ta phải tự xác định vị trí cũng như
phải lựa chọn một con đường phù hợp, ngõ hầu
gặp nhiều thuận duyên trên hành trình tìm về Bảo sở của chính mình. Vì lẽ,
Phật giáo là một tôn giáo xây dựng trên cơ sở hiện thực, dựa vào những điều kiện
thiết thân của mỗi chúng sanh mà đưa ra những phương thuốc thích ứng.
Khi
đã xác định là một người Phật tử ở trong giai đoạn đầu của tiến trình học Phật,
lẽ dĩ nhiên mỗi chúng ta còn phải đối diện với nhiều vấn đề phức tạp khác của sự
sống. Chẳng hạn như phải lập nghiệp, mưu sinh, quan hệ xã hội, bạn bè, dựng vợ gả chồng cho con cái… tất cả những vấn
đề đó đòi hỏi những cơ sở để tồn tại mà đời sống vật chất là một điều kiện cần
không thể thiếu. Vấn đề ở đây chính là khi tạo ra và sử dụng những phương
tiện vật chất ấy, ta phải có thái độ như thế nào để phù hợp với tinh thần tri
túc.
Ở đây
tri túc không phải là một giáo lý khuyến khích sự tự mãn, tự bằng lòng với những
gì ít ỏi mà mình có mà chính là một thái độ biểu lộ sự thao thức của mình đối với
những nỗi khổ đau ấy mà người Phật tử chân chính không an tâm thâu góp riêng
cho mình những tài lợi, những tiện nghi mà mình có thể sở hữu và có quyền thâu
góp. Chính vì thông cảm với nỗi khổ đau ấy mà người Phật tử quên bớt mình đi và
nghĩ đến người khác, luôn luôn tâm niệm rằng những điều kiện vật chất mà mình
đang có là có thể tạm đủ cho mình rồi và dành thời giờ, tâm lực để lo lắng cho
kẻ khác. Chính nhờ sự tự nguyện tri túc như vậy mà người Phật tử biết hạn chế sử
dụng những xa xỉ phẩm, những phí tổn vô ích khác và có thể dành dụm những sở hữu
vật chất nhất định giúp đỡ cho tha nhân. Có thêm vài mẫu ruộng để mở mang canh
tác, có thêm một chiếc xe để thuận tiện việc đi lại, có được một cái máy điện
toán, điện thoại để tiện việc thông tin…điều đó không có gì chống trái với giáo
lý đạo Phật cả, không hề đi ngược với giáo lý tri túc. Trừ phi phương tiện để
có những điều kiện vật chất ấy là phương tiện bất chính và mục tiêu sử dụng là
để nhằm thoả mãn tư dục cá nhân.
Cho nên, có thể thấy, sống tri túc không nhất
thiết phải chấp nhận một cuộc sống với điều kiện vật chất tạm bợ và như vậy không hề ngăn cản sự tiến lên hay
“làm giàu” của mỗi cá nhân. Việc vận dụng nhiều phương tiện hỗ trợ trong cuộc sống
không hề trái với tinh thần tri túc và cần phải hiểu rằng tri túc chính là biết
đủ đối với bản thân mình để từ đó có thể hy sinh mà phụng sự cho người, cho
nhân loại./.
(Trích Phật pháp bách vấn
tập I, 15/11-2024)
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét