TÍNH TƯƠNG QUAN CỦA TƯỚNG DUYÊN KHỞI
Tất cả
pháp trong thế gian như vật chất, tâm thức, sinh mạng v.v.. đều không thể tồn tại
độc lập, là pháp duyên khởi nương tựa vào nhau mà hình thành. Do các điều kiện
hoà hợp mà hình thành và tồn tại trong hiện thực, trong đó, biểu hiện thành những cá thể và hoạt động độc
lập; đây giống như mạng lưới được kết thành từ các mắc lưới. Thực tại là sự tồn
tại trong mối liên hệ. Sự tồn tại trong mối liên hệ này được xem như một cá thể
và hoạt động độc lập, kỳ thực nó được quyết định bởi sự quan hệ, tách rời sự liên hệ sẽ không thể tồn tại. Tất
cả trong thế gian vốn là như thế, chúng sinh hay con người đều như thế. Từ sự thật duyên khởi như vậy đã hình thành
nhân sinh quan. Đó nhân sinh quan vô ngã, nhân sinh quan hỗ trợ lẫn nhau, nhân
sinh quan tri ân và báo ân, cũng chính là nhân sinh quan “Từ bi là cội gốc”.
Đơn giản hơn, hãy căn cứ hiện tại mà nói, con
người không thể tách rời xã hội mà sinh tồn. Ngoại trừ mối quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình không bàn đến, thì các vấn đề như y
phục, lương thực, nơi ở, thuốc thang v.v…đều nhờ người nông dân mà có nguyên liệu,
được gia công chế tạo, nhờ vào thương buôn vận chuyển đến cung cấp. Sự học tập
tri thức và kỹ năng thực tiễn, sự thành tựu học vấn và sự nghiệp, thảy đều nhờ
vào sự giúp đỡ của thầy cô, bạn bè v.v… Xã hội theo trật tự mà duy trì, công việc
trong cộng đồng được đẩy mạnh, an ninh trong ngoài được bảo đảm, tất cả đều
nương vào đường lối chính trị và quân sự của chính phủ. Nếu không có sự hoà hợp
của những điều kiện như vậy, cuộc sống của chúng ta trong một ngày hoặc trong một
khắc khó được bình an.
Nhìn
rộng ra, một đất nước hay một dân tộc khác, đến một thời đại, càng chứng minh sự
liên quan mật thiết giữa tư tưởng và kinh tế. Cho đến những chúng sinh không phải
là thân người, cũng có sự liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến lợi lạc và sinh
tồn của con người. Giữa con người và con người, chúng sinh và chúng sinh, đều
quan hệ mật thiết như vậy, tự nhiên sẽ nảy sinh ít nhiều sự đồng cảm. Sự đồng cảm
này từ ý thức của cộng đồng mà phát khởi, tức là cảm nhận được cái này và cái
kia đều có liên quan, có một điểm chung; do vậy mà quan hệ thân thiết hơn, từ
đó thực hành tâm hạnh từ bi ban vui và cứu khổ. Đây chính là hiện thực dễ hiểu
của con người ở thế gian.
Nếu
căn cứ quá trình sinh tử lưu chuyển trong ba thời mà thảo luận, tất cả chúng
sinh từ vô thỉ cho đến nay có mối quan hệ
vô cùng mật thiết với ta, cùng sống trong một cộng đồng có quan hệ gắn
bó, đều là cha mẹ, là anh chị em ruột thịt, là vợ chồng, hoặc là con cái của
ta. Tất cả chúng sanh đều có ân đức với ta, đó là ân cha mẹ, ân chúng sanh, ân
quốc gia, và ân đức của Tam bảo. Do đó từ tâm cảnh của Bồ tát mà nói, tất cả chúng sanh đều “như cha mẹ, như anh
em, như chị em, cùng sống hoà thuận an lạc”. Từ tâm cảnh của Phật mà nói Đức Phật
“xem tất cả chúng sanh như La Hầu La” (con của Phật). Ý thức cộng đồng này
không bị giới hạn trong một gia đình, một đất nước, một dân tộc hay trong phạm
vi con người; càng không bị giới hạn trong những người cùng làm một công việc,
cùng một chức vụ, cùng một giai cấp, cùng một khu vực, cùng một trường học,
cùng một tư tưởng, hoặc cùng một tôn giáo hay cùng một kẻ thù. Từ mối quan hệ
giữa con người và con người phát triển rộng thành ý thức chung cho tất cả chúng
sanh, từ đó phát sinh ý nghĩ và hành động báo ân: Làm lợi cho tất cả chúng sanh
(từ), cứu giúp hết thảy chúng sanh (bi). Từ bi tức là Nhân và ái, là cội nguồn
của đạo đức, là chuẩn mực cao nhất của đạo đức, tưởng chừng khó hiểu, nhưng thật
ra là pháp tắc duyên khởi ảnh hiện từ tâm thức của con người mà lưu xuất ra, là
sự cảm thông sâu sắc./. (Trích: Phước huệ tuỳ thân-
HT Ấn Thuận)
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét