Thứ Sáu, 9 tháng 2, 2018

ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO VỚI NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM


ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO VỚI NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM

Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, có cả tôn giáo nội sinh và ngoại lai, việc tiếp nhận các tôn giáo ngoại lai trong đó có Công giáo có sự gắn liền với hoàn cảnh chính trị xã hội, về lịch sử tiếp nhận và những yếu tố khác.
Trong mấy thế kỷ Việt Nam tiếp xúc và giao lưu với Phương Tây, bên cạnh Công giáo, ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đã tác động một cách khá sâu rộng vào nhiều lãnh vực văn hóa vật chất và tinh thần người Việt Nam. Tùy từng lúc từng nơi, thái độ của người Việt Nam có khác nhau, chấp nhận hay chống đối, nhưng cuối cùng bao giờ cũng là sự thâu hóa linh hoạt, tiếp nhận những gì có ích và biến đổi cho phù hợp với tính cách Việt Nam và nhu cầu Việt Nam. So với Phật giáo và Khổng giáo du nhập vào Việt Nam muộn hơn, mang đậm nét văn hóa phương Tây nhưng cũng đã đóng góp nhiều mặt tích cực tạo nên những nét văn hóa Công giáo rất riêng biệt.
Về thời gian, Việt Nam tiếp xúc với Công giáo và văn hóa Công giáo từ khá lâu. Trong đó tính cách quốc tế của việc truyền giáo ở Việt Nam đã dẫn đến những điều kiện thuận lợi để người Việt Nam tiếp thu văn minh phương Tây và văn hóa Công giáo. Các loại hình văn hóa mới ở Việt Nam tương đối tiêu biểu ở hình loại và những kết quả trong thực tiễn, từ kiến trúc, nghề in, báo chí, văn học, đến sân khấu, kịch, điêu khắc, nghệ thuật v.v.. đã xuất hiện nhiều nét mới lạ. Cùng với thời gian dần dần Công giáo trở thành mạch sống bên trong bản sắc dân tộc.

1/ Công giáo  vào Việt Nam

Cũng như các tôn giáo khác, Công giáo xem việc truyền đạo là sứ mạng thiêng liêng và thường trực. Ngay từ rất sớm với lời thúc dục hãy đi khắp trái đất và giảng phúc âm cho mọi người. Bằng các hoạt động truyền giáo, Công giáo từ một tôn giáo địa phương nhanh chóng trở thành tôn giáo của đế chế La Mã, và từ tôn giáo của đế chế La Mã trở thành tôn giáo của châu Âu. Với những phát kiến địa lý thời kỳ cận đại đã mở ra những triển vọng lớn lao cho việc mở rộng nước Chúa đến những miền đất ngoại trong đó có Việt Nam.
Tình hình Việt Nam từ thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ thứ 18 có nhiều xáo trộn và diễn biến phức tạp. Nội bộ giai cấp thống trị lục đục vì sự tranh chấp quyền lực dẫn đến sự chia cắt đất nước kéo dài từ năm 1645 đến năm 1692, sau đó là cuộc nội chiến giữa Nguyễn Ánh và quân Tây Sơn và sự phục hồi  của nhà Nguyễn đầu thế kỷ thứ 19. Những điều đó đã làm cho kinh tế trì trệ và gián đoạn, chính trị thì hỗn độn, đời sống nhân dân thì đói khổ lầm than, nhân tâm thì  giao động ly tán, tạo thuận lợi cho việc thâm nhập truyền bá Công giáo cũng như việc dòm ngó chinh phục của chủ nghĩa tư bản phương Tây.
Từ những thập niên đầu của thế kỷ 16 ở Việt Nam đã có những giáo sĩ phương Tây đến truyền giáo. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép rằng: Năm Nguyên hòa đời vua Lê Trang Tông (1533- Tây lịch) có một thương nhân là Inikhu đi đường biển vào giảng đạo Gia Tô ở Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện Nam Chấn và làng Trà Lũ thuộc huyện Giao Thủy. Nhiều nhà nguyên cứu lịch sử Công giáo lấy năm 1533  là thời mốc đánh dấu việc truyền Công giáo vào Việt Nam. Tiếp đó 1550 tại Hà Tiên, 1558, 1583 có các Linh Mục đến truyền giáo tại ven biển Quảng Ninh…Thời kỳ 1533 đến 1614 chủ yếu các giáo sĩ dòng Phan xin cô thuộc dòng Bồ Đào Nha và dòng Đa Minh thuộc Tây Ban Nha đi theo những thuyền buôn vào nước ta, nhưng do không quen thông thổ, chưa thạo ngôn ngữ nên việc truyền giáo không mấy kết quả. Từ năm 1615 đến năm1665 các giáo sĩ dòng Tên thuộc Bồ Đào Nha từ Ma Cao (Trung Quốc) vào Việt Nam hoạt động ở cả Đàng Trong (nam sông Gianh), Đàng Ngoài (bắc sông Gianh). Những giáo sĩ dòng Tên tỏ ra thông thạo tiếng Việt lại hoạt động khôn khéo nên mặc dù gặp khó khăn phức tạp nhưng họ đã thu hút được nhiều người theo đạo. Theo tài liệu của giáo hội, sau 37 năm truyền giáo ở Đàng Ngoài với 25 linh mục, 5 trợ sĩ và 50 năm truyền giáo ở Đàng Trong với 39 linh mục, các giáo sĩ dòng Tên đã phát triển được 100 ngàn tín đồ. Khi đạo phát triển, các giáo sĩ dòng Tên nghĩ đến việc cần  có các giám mục phụ trách để thúc đẩy công cuộc truyền giáo ở bước cao hơn. Năm 1659, Giáo hoàng Alec-xăng-đrơ VII đã thành lập 2 Giáo phái đầu tiên ở Việt Nam và phong hai người Pháp Francois- Paullu và Lambert de la Motte làm giám mục phụ trách truyền  đạo ở Đông Dương. Như vậy, thế kỷ 16-17 là thời kỳ truyền giáo của các giáo sĩ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Càng về sau các giáo sĩ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha càng lu mờ, trong khi các giáo sĩ Pháp ngày càng mạnh nhất là sau khi Hội Thừa sai Paris ra đời.
Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội nước ta thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 tiếp tục có nhiều biến động phức tạp càng tạo nhiều điều kiện cho sự bành trướng của Hội Thừa sai Pari. Thời kỳ này các giáo sĩ hoạt động rất ráo riết, đóng góp tích cực vào việc truyền bá đạo Công giáo vào Việt Nam.
Thời kỳ này thực dân Pháp âm mưu xâm lược Việt Nam, đe dọa nền độc lập dân tộc. Đây là lý do chính trị chủ yếu và trực tiếp, bên cạnh các lý do tư tưởng, tôn giáo và văn hóa để dẫn đến các vua chúa phong kiến Việt Nam nghi ngại cấm đạo, bức đạo quyết liệt. Chỉ tính riêng ba đời vua của triều Nguyễn là Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức có tất cả 14 sắc chỉ cấm Công giáo. Đặc biệt vào thời điểm trước và sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam (đời vua Tự Đức) việc cấm đạo trở nên gay gắt quyết liệt.
Bên cạnh các hoạt động cấm đạo của triều đình, còn có phong trào Bình tây sát tả chủ yếu ở miền Trung do các văn thân sĩ phu lãnh đạo chống lại đạo Công giáo chủ yếu từ góc độ tư tưởng, văn hóa, bắt đầu từ năm 1862, khi trều đình nhà Nguyễn cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp, kéo dài cho đến tận năm 1888.
Sau khi chiếm được Việt Nam, nhất là từ khi thiết lập được  chế độ thống trị, gần như là để đền đáp công lao Hội Thừa sai Pari, Pháp ban cho các giáo sĩ Thừa sai nhiều đặc quyền đặc lợi. Uy thế của giáo hội được đề cao, các giáo sĩ trở thành những người có thế lực lớn trong xã hội lúc bấy giờ. Nhờ những điều kiện thuận lợi về mặt vật chất và tinh thần do chính quyền Pháp đưa lại hàng ngàn cơ sở tôn giáo được triển khai xây dựng, số tín đồ ngày càng tăng nhanh.
Sau bốn thế kỷ truyền giáo, tới nay đạo Công giáo ở Việt Nam có hơn 6 triệu tín đồ. Thâm nhập vào Việt Nam giữa lúc chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, nạn đói kém tràn lan, đạo Công giáo trở thành chổ dựa tinh thần  cho người dân đang cần niềm an ủi. Với truyền thống bao dung, người Việt Nam dễ dàng chấp nhận mọi tôn giáo ngoại lai miễn là nó phù hợp và đến với thiện chí hòa bình. Thêm vào đó, Công giáo là một tôn giáo mang đậm tính cách cứng rắn của truyền thống văn hóa phương Tây, do vậy trong một thời gian dài mới hòa đồng với văn hóa Việt Nam.

Sự hội nhập văn hóa công giáo với văn hóa Việt Nam

Nền văn hóa của một dân tộc được ví như những tấm vải muôn màu mà những sợi chỉ dọc là những cốt lõi văn hóa chính của dân tộc đó, trong khi những sợi chỉ ngang là những đón nhận qua nhiều thế hệ. Như vậy tam giáo đã dệt nên những sợi chỉ ngang muôn màu trong quá trình phát triển của văn hóa Việt Nam. Khi đạo Công giáo hiện diện ở Việt Nam thì đã có một yếu tố mới làm giàu cho văn hóa Việt Nam. Trong bài viết của giáo sư  sử học Phạm Cao Dương, một học giả không Công giáo đã viết “ Ngày nay người ta không thể nói tới văn hóa của dân tộc Việt Nam hay cuộc sống của người Việt Nam trong bất cứ phạm vi nào mà không nói tới sự hiện diện, vai trò và sự đóng góp của Đạo Công giáo, dù đó là cuộc sống ở trong nước hay ngoài nước ”.
Công giáo là tôn giáo giúp cho con người cảm nhận được cuộc sống thực tại bằng những văn hóa, kỷ thuật khoa học,  kiến trúc, điêu khắc, hội họa v.v...những điều mới lạ mà văn hóa Việt Nam chưa có. Với kỹ thuật tân tiến điện đài máy móc, hàng hóa, đội ngũ con người chịu khó chịu cực mở mang nước Chúa, với đời sống cơ cực khổ nhọc của người dân Việt, nhân tâm khủng hoảng hoàng cảnh nghèo thiếu là cơ hội đạo Công giáo thâm nhập vào văn hóa dân tộc.
Niềm tin Công giáo tháp nhập vào nền văn hóa Việt Nam, vì nó có những điểm tương đồng với văn hóa Việt, mỗi khi đau khổ người ta kêu trời vái đất, đồng nghĩa với cầu sự gia hộ của Chúa cứu thế. Trong Công giáo, bí tích Rửa tội là cửa ngỏ đầu tiên của người tín hữu gia nhập vào cộng đoàn dân Chúa, thì nghi lễ cáo gia tiên trong văn hóa Việt là cửa ngỏ cho những thành viên mới gia nhập vào cộng đồng gia tộc, làng nước. Nếu trong đạo Công giáo, một chút bánh, chút rượu và lời truyền phép của vị linh mục làm nên thực tại Thiên Chúa hiện diện nơi bí tích Thánh Thể, thì trong phong tục cúng vái Việt Nam, một nén hương, đĩa xôi, chút rượu trước hương án ông bà tổ tiên thiết lập được tương quan linh thiêng giữa cõi dương và cõi âm. Qua bí tích Hôn nhân Công giáo, đôi nam nữ được chính thức công nhận là vợ chồng trước mặt giáo hội và Thiên Chúa, thì qua những tục lệ cưới hỏi Việt Nam, họ cũng được gia tộc, xã hội, làng nước công nhận là đôi vợ chồng. Có thể nói, chính nhờ cảm thức về “cái thiêng ” mà văn hóa Việt Nam có những sự tương đồng rất gần với những thực tại Công giáo.
Trong việc hội nhập Công giáo vào văn hóa Việt, một trong yếu tố quan trọng và nền tảng văn hóa đó là đạo hiếu, hay tinh thần hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên. Vì người Việt cũng như các dân tộc Á Đông luôn luôn đặt nặng tinh thân hiếu thảo đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên. Từ nguồn cội, đạo hiếu luôn luôn là một nền tảng căn bản cho đạo làm người của người Việt Nam, và nằm trong bản chất văn hóa của người Việt. Vì thế việc hội nhập văn hóa Công giáo vào Việt Nam cũng khởi đầu từ đạo hiếu, và lấy đạo hiếu làm nền tảng. Trong Công giáo hiếu được ghi rõ ràng.
Trong mười giới của Công giáo được chia làm ba nhóm: 3 giới đầu liên quan đến Thiên Chúa, 7 giới sau liên quan đến tha nhân. Giới thứ 4 “thảo kính với cha mẹ”  là giới đứng đầu nhóm sau. Điều này phù hợp với đạo hiếu Việt Nam. Điều thứ hai, dân tộc Việt Nam đặt nặng đạo hiếu với ông bà tổ tiên nhiều đời nhiều kiếp đã quá vãng mà mọi người đều phải hiếu thảo. Niềm tin Công giáo là có Trời là Đấng tạo dựng vũ trụ  phù hợp với niềm tin người Việt, là cửa ngỏ thuận lợi cho việc hội nhập văn hóa Công giáo. Người ta tin rằng trên đầu mình còn có một Đấng thiêng liêng, tạo nên vũ trụ. Tuy nhiên, ý niệm về Đấng thiêng liêng này còn rất mơ hồ, chưa rõ rệt, và Công giáo đưa ý niệm này vào việc hiếu thảo với Đấng thiêng liêng, cũng là cha mẹ chúng ta, nhưng ở cấp độ cao và rộng hơn cha mẹ ở dưới đất này. Công giáo quan niệm vũ trụ như một đại gia đình, trong gia đình đó, Thiên Chúa là cha mẹ sinh ra tất cả, và tất cả mọi tạo vật là anh em.
Như vậy, khi đưa quan niệm về đạo hiếu của mình vào văn hóa dân tộc, thì người Công giáo đã hoàn chỉnh quan niệm hiếu thảo đối với cha mẹ vốn sẵn có trong nền văn hóa Việt Nam, làm cho quan niệm về đạo hiếu của dân tộc trở nên rộng rãi và đầy đủ hơn.
Tiếp nhận văn hóa Công giáo, văn hóa Việt Nam cũng được làm giàu thêm bởi những yếu tố văn hóa phương Tây, và đặc biệt thành công trong vấn đề chữ viết. Khi truyền đạo vào Việt Nam, khó khăn đầu tiên mà các giáo sĩ vấp phải là sự khác biệt về ngôn ngữ và văn tự, các giáo sĩ có thể học tiếng Việt được, nhưng học chữ Nôm thì quá khó. Bởi vậy họ đã dùng bộ chữ cái La tinh quen thuộc có thể bổ sung thêm các dấu phụ (mà một số ngôn ngữ phương Tây như chữ Bồ Đào Nha đã từng làm) để ghi âm tiếng Việt- thứ chữ này về sau được gọi là chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ là thành quả công sức tập thể của các giáo sĩ người Bồ Đào Nha, Ý, Pháp…và những người Việt Nam đã từng giúp họ học tiếng Việt.
Năm 1632 Gaspar  d Amaral đã soạn ra cuốn từ điển Bồ-Việt. Song công lao lớn nhất trong công việc củng cố và phát triển thứ chữ này thuộc về linh mục Alexandro de Rhodes, người đã dày công sưu tập, bổ sung biên soạn và năm 1651 đã cho xuất bản ở Rôma cuốn tự điển Việt-Bồ- La tinh với ngữ pháp tiếng An Nam. Tuy mục đích đầu tiên của việc biên soạn chữ Quốc ngữ chỉ là giúp cho các giáo sĩ truyền đạo, rồi sau được chính quyền Pháp sử dụng phục vụ cho việc cai trị, nhưng nếu so với chữ hán và chữ Nôm nó có ưu điểm rất lớn và rất dễ đọc.
Như vậy, là từ khi truyền vào Việt Nam, đạo Công giáo đã có những đóng góp đáng kể cho nên văn hóa Việt Nam. Hội nhập Công giáo vào Việt Nam đã làm cho nền văn hóa ấy trở nên phong phú, đa dạng. Cũng giống như Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo đã làm trước kia. Trong sự hội nhập này không có gì mất đi, trái lại cả văn hóa Việt Nam lẫn các tôn giáo khác, đặc biệt là Công giáo đều có thêm những nét độc đáo của riêng mình.

Bản địa hóa văn hóa Công giáo.

Trong cuộc giao lưu và tiếp xúc với Công giáo, văn hóa Việt Nam không chỉ giành được quyền tôn trọng, mà trong một số trường hợp nó còn khiến cho đạo Công giáo khi vào Việt Nam đã được bản địa hóa, tiếp nhận những dấu ấn của văn hóa Việt Nam.
Việc thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng truyền thống ăn sâu trong tâm thức của người Việt. Đạo Công giáo trước cộng đồng Vatican II loại bỏ tín ngưỡng này để lại không ít những trằn trọc day dứt cho những tín hữu theo đạo. Nhưng nay tín hữu Công giáo đã thực hiện được những nghi lễ tưởng niệm tổ tiên ngày càng phong phú và đa dạng. Ngày nay các gia đình Công giáo đều đặt bàn thờ tổ tiên ngay cạnh (thấp hơn một chút) bàn thờ Chúa, cũng đặt để bát hương và hai chân nến hai bên. Vào những ngày giỗ trong gia đình, người Công giáo cũng tổ chức theo phong tục địa phương như thắp hương kính nhớ tổ tiên, dâng hoa quả để tỏ lòng thành …
Với truyền thống trọng nữ, truyền thống thờ Mẫu của người dân Việt, thì hình ảnh đức Mẹ  Maria trong đạo Công giáo thật gần gũi với người Việt. Bà trở thành nhân vật được nhắc đến rất nhiều trong Đạo Công giáo Việt Nam, tên Bà được đặt cho rất nhiều thánh đường. Thậm chí đã hình thành cả một truyền thuyết về đức Mẹ Maria Việt Nam, Đức Mẹ La Vang. Chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy nơi đâu hay bất cứ gia đình nào cũng đặt tượng Đức Mẹ để Mẹ ban ơn phù giúp. Sự sùng kính Đức Mẹ của người Việt đã trở thành tập tục, một truyền thống tốt đẹp và thiêng liêng. Bên cạnh đó còn có hình ảnh khác cũng độc đáo không kém, tạo nên cho những nét đặc trưng cho Công giáo Việt Nam: những tiếng chuông nhà thờ hai buổi sớm chiều đã tạo nên nguồn cảm hứng cho thơ ca và âm nhạc, rồi từ những lời kinh phụng vụ được dịch sang tiếng Việt theo một thể thơ vần Việt Nam rất tài tình mà mỗi khi đọc ta đều có một rung cảm hồn Việt. Không một người Công giáo nào lại không thuộc những lời kinh quen thuộc như kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng hoặc Kinh Sáng Danh… lối cầu nguyện bằng kinh dường như trở thành máu thịt trong đời sống đức tin của người Việt, đó là những nét đẹp trong văn hóa Công giáo hòa nhập với văn hóa dân tộc.
Đặc biệt, các nhà trí thức Công giáo đã phát huy cái hay của Nho gia và Phật giáo, họ cũng soạn ra  những tác phẩm diễn ca để truyền bá giáo lý gia đình, nổi bậc nhất là cuốn “Ca Vè Cụ Sáu” của Linh mục  Trần Lục, những câu vè theo thể thơ song thất lục bát hoặc lục bát, một thể thơ bình dân rất quen thuộc với làng quê Việt Nam như các câu:
                   Phần hồn thì Chúa sinh ra
          Xác này Chúa phó mẹ cha sinh thành
                   Phụ tình mẫu huyết đúc hình
          Cho ta toàn vẹn mà sinh làm người
     Về kiến trúc Công giáo Việt Nam không rập khuôn theo kiến trúc Phương Tây mà kiến trúc theo  Đông phương để phù hợp với môi trường khí hậu và thời tiết Việt Nam. Các tòa nhà không cao như phương Tây mà chiều cao tối đa thường chỉ giới hạn ở hai tầng để ngôi nhà hòa mình vào thiên nhiên, các phòng ốc thì thoáng mát, cửa sổ được mở nhiều lối theo lối Việt Nam, các mái hiên, mái che cửa sổ được làm rộng ra để che nắng tránh mưa. Các kiến trúc sư còn chú ý sử dụng hệ thống mái ngói bố cục kiểu tam quan, lầu hình bát giác.. để nổi bậc tính dân tộc. Trước kia các nhà thờ đều rập khuôn cứng nhắc theo lối kiến trúc gô- tích cao vút có đỉnh tháp nhọn hoắt, thì từ thế kỷ 19 cũng đã có những ngôi nhà thờ được xây dựng theo lối kiến trúc và trang trí hoàn toàn độc đáo theo kiểu Việt Nam, nhìn thoáng qua chẳng khác gì những ngôi chùa, mà nhà thờ Phát Diệm là một điển hình vời tháp thấp trải rộng có mái cong. Ngoài cây thánh giá để phân biệt giữa chùa và ngôi thánh đường, ta cũng phải nhìn nhận đến những nét hoa văn, những bức phù điêu hay những pho tượng.. tất cả đều hài hòa, tạo nên một nét rất riêng biệt trong sự thánh thiện trang nghiêm của đạo Công giáo.
Nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình) là một trong những công trình kiến trúc độc đáo của Việt Nam và đồng thời cũng là một trong những nhà thờ Công  giáo vào loại cổ nhất ở Đông Nam Á. Đây là một quần thể kiến trúc gồm một nhà thờ lớn ở chính giữa và năm nhà thờ nhỏ bao quanh trên một khu đất rộng hơn hai hét ta. Khác hẳn với hình ảnh phổ biến của nhà thờ theo kiểu Châu Âu, nhà thờ lớn Phát Diệm mang dáng dấp của một ngôi chùa với kiến trúc thấp trải rộng mái cong mang tính dân tộc rõ nét.
Như vậy, phần lớn trong mọi lãnh vực sinh hoạt, Công giáo đã có đóng góp rất nhiều cho nên văn hóa Việt Nam, đồng thời cũng tạo cho mình nét văn hóa đặc thù ăn sâu vào mọi phạm vi của đời sống.
Công giáo tại Việt Nam, nơi chịu ảnh hưởng của ba tôn giáo lớn (Phật, Khổng, Lão), thường bị phê phán là ngoại lai với dân tộc, vì ảnh hưởng của Công giáo đối với văn hóa Việt Nam còn rất hạn chế, nhưng cùng với thời gian đạo Công giáo đã có những ảnh hưởng và đóng góp nhất định vào nền văn hóa Việt Nam. Đạo Công giáo đến Việt Nam giai đoạn đầu cũng được đón tiếp nồng nhiệt. Gặp được Công giáo và nghe những lời giảng của các linh mục trong hội truyền giáo, đông đảo những nông dân nghèo đã hồ hởi tiếp đón Tin Mừng, vì Tin Mừng đã làm sáng tỏ và nổi bậc lên những yếu tố vốn tiềm tàng trong tâm thức tín ngưỡng dân gian, là chất liệu sống của thôn làng cả ngàn năm. Họ đã tin theo và trở thành những tín hữu nhiệt thành đến mức phải chịu những sự khủng bố, bắt đạo ngặt nghèo của vua quan. Một thời gian dài đạo Công giáo đã không phát triển mạnh, không hội nhập được vào văn hóa Việt Nam do những tín điều đi ngược lại tập quán, đạo lý của dân tộc. Những người theo đạo Chúa bị coi là  Tà đạo vì không cho phép thờ cúng ông bà tổ tiên, không gắn bó với tổ tiên làng mạc. Bất cứ người Việt Nam nào đều không thể chấp nhận được một người theo đạo lại không chịu thắp nén hương trước bàn thờ gia tiên. Đến ngày nay những tín điều đó đã không còn trong đời sống của cộng đồng theo đạo Công giáo ở Việt Nam, mà thay vào đó là hình ảnh bàn thờ gia tiên được đặt ngay dưới bàn thờ Chúa trong nhà của mỗi giáo dân hay nói cách khác văn hóa Công giáo đã dung hòa với phong tục tập quán tín ngưỡng người Việt, đã được bản địa hóa.
Ngày nay, lễ Noel, Valentin không còn dành riêng cho người theo đạo Công giáo mà nó trở thành ngày hội cho nhiều người nhất là giới trẻ. Ở Việt Nam, đặc biệt các thành phố gần đến ngày lễ có rất nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm Giáng sinh và lễ hội tình yêu làm náo nhiệt khắp phố phường và lan tỏa xuống cả làng quê.
Do vậy, ta không thể phủ nhận được những đóng góp to lớn của đạo Công giáo đối với nền văn hóa dân tộc. Việc ra đời chữ quốc ngữ đã giúp cho người Việt dễ dàng hơn trong việc học tập, giao tiếp và bảo tồn những dữ liệu dưới dạng văn bản. Đồng thời khi đạo Công giáo vào Việt Nam cũng đã mang theo nhiều yếu tố văn hóa phương Tây du nhập vào, làm cho văn hóa Việt Nam trở nên phong phú hơn, phát triển thêm nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật mới. Cho đến nay đạo Công giáo đã có được một nền móng tương đối vững chắc nhờ từng bước hội nhập vào trong văn hóa Việt Nam theo sự đánh giá của các nhà khoa học về tôn giáo này.
                       Nguồn:  btgcp. Gov.vn
             (trích: Luật tín ngưỡng tôn giáo- Tìm hiểu về lễ hội-tín ngưỡng)
                                             Áp dụng: từ 01-01-2018)
{]{
Lời bàn:
Qua các  đề tài về văn hóa Công giáo hội nhập vào Việt Nam. Ta thấy đạo Công giáo đã rất thành công trên việc đưa đạo vào đời trong thời gian ngắn so với Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo đã có mặt trên 2000 năm.Nhưng những người dân Việt Nam nói về Phật giáo, Khổng giáo họ mù mờ không hiểu, ngay những người trong giáo hội cũng không rõ về tôn giáo của mình đang tín ngưỡng. Ngày lễ Noel toàn dân cả nước từ già đến trẻ không ai là không biết, dù người đó có theo Công giáo hay không họ đều biết và tham gia các lễ hội Noel. Trong khi Phật giáo nói tín ngưỡng đạo Phật ảnh hưởng dân chúng 80% nhưng ngày lễ Phật Đản phần đông họ không hề hay biết, chính những người thường xuyên đi chùa lễ Phật ăn chay ngày lễ Phật Đản tại nhà mình cũng không treo một lá cờ để gọi là đón Mừng ngày Phật Đản. Thậm chí hễ nghe chùa có việc gì hơi khó khó là họ dấu mặt xóa tên, không dám nói mình là đạo Phật. Điều này đã từng xảy ra thời Tổng thống Ngô Đình Diệm và sau ngày giải phóng từ năm 1975 đến năm 1990, ông Nguyễn Văn Linh lên làm chủ tịch nước mới thay đổi việc đi chùa. Lại nữa những người theo đạo Phật không tuân giữ lời Phật dạy nghiêm túc bằng người theo đạo Công giáo. Ví dụ trong 5 giới Phật chế cho người tại gia, như giới không uống rượu bia người theo đạo Công giáo họ giữ rất nghiêm túc, trong khi đạo Phật từ giới xuất gia đến tại gia nhất là Nam giới không giữ được. Về tập tục đốt vàng mã cho người chết, người theo Công giáo từ trong thánh đường đến người theo đạo họ không dùng, trong khi đạo Phật từ chùa cho đến tín đồ hình như 90% đều đốt vàng mã.   Đạo Công giáo họ biết ứng dụng cái hay cái đẹp của dân tộc để làm cho đạo họ ngày càng phát triển và đi vào cuộc sống thực tế của mọi người dân. Trong khi  những người tin đạo Phật càng làm cho đạo Phật lu mờ, trở thành một tôn giáo cúng kiến và cầu nguyện chẳng khác nào đạo Bà la môn ở Ấn Độ.  Từ thuở Phật còn tại thế Ngài đã không chấp thuận cách tu tập như vậy nay đạo Phật lại đi theo tín ngưỡng Ba la môn giáo.
                        d & c 

ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO VỚI NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét