QUAN HỆ NHÂN QUẢ
Thế gian hay xuất thế gian, tất
cả đều không lìa nhân quả. Phật pháp cũng được xây dựng từ nền cơ sở đạo lý
nhân quả. Chúng ta không gieo nhân, làm sao chúng ta có thể gặt hái được quả. Giả
như việc học hành, quá khứ chúng ta chăm chỉ học hành là nhân, học vị trong
tương lai là quả. Chúng ta cần cù lao động là nhân, được đền bù là quả, vì thế
gian hay xuất thế gian không nằm ngoài nhân quả. Nhân quả luôn vĩnh viễn, liên
tục và tuần hoàn, đây là một đạo lý chúng ta cần phải biết. Biết được nhân quả
là liên tục và tiếp nối tuần hoàn thì trong mọi hoàn cảnh, chúng ta tự nhiên sẽ
hướng đến đoạn trừ các việc ác và tu tập các việc thiện. Vì chính mình tạo nhân
thì tự mình gặt lấy quả, và tất nhiên, kết quả ai cũng muốn tốt đẹp như ước
muốn. Do đó, chúng ta gieo nhân thiện nhất định sẽ được quả thiện, gieo nhân ác
tất nhiên sẽ bị quả ác. Không thể nói gieo nhân thiện mà lại gặt quả ác hay
gieo nhân ác mà được quả thiện, đây là đạo lý không thể có. Nhân quả là định
luật tất yếu. Đời nay gieo nhân thiện, đời nay không hưởng thì đời sau hưởng,
việc ác cũng vậy. Nếu người đời nay làm thiện mà gặp quả báo xấu, hay ngược lại
đời nay tạo việc xấu lại được may mắn hạnh phúc. Khi xét đến thời gian nhân
quả, chúng ta cần phải đề cập đến ba khoảng thời gian.
Thứ nhất là hiện báo: Nghĩa là người tạo nhân thiện hay ác trong đời nay, do nhân
duyên thuần thục đưa đến lãnh thọ quả báo trong đời hiện tại. Ví như trồng các
loại cà ớt hay giống lúa, chỉ trong vòng một mùa hay một năm đã thu hoạch được
kết quả. Cho nên cổ đức nói: “ Đời xưa trả báo thì chầy. Đời nay trả báo một
giây nhãn tiền ” là vậy.
Thứ hai là sinh báo: Nghĩa là chúng ta gây nhân đời nay, đời sau mới chịu quả
báo. Quả báo này có tánh cách hơi lâu. Như chúng ta trồng cây chuối con, trồng
năm này qua sang năm sau chúng ta mới thu hoạch được quả. Vì thế trong kinh có
câu: “ Muốn biết nhân đời trước, hãy xem quả đời nay ”. Hai câu này có thể chỉ
cho sinh báo.
Thứ ba là hậu báo: Nghĩa là chúng ta tạo nhân trong đời này, đến bốn năm, trăm
năm, ngàn năm hay vô lượng kiếp sau chúng ta mới thọ quả báo. Ví như chúng ta
trồng những loại cây lâu năm, đến năm năm, mười năm hay vài ba mươi năm sau mới
có kết quả. Cho nên trong kinh có kệ rằng: “ Giả sử trăm ngàn kiếp trôi qua,
những nghiệp chúng ta đã tạo sẽ không mất. Khi nhân duyên hội đủ, tự mình phải
nhận chịu quả báo ”. Vì thế, đường đi của nhân quả rất phức tạp vi tế. Ví như
đời ông cha làm thiện, đời sau con cháu sẽ được quả thiện, hoặc đời ông cha làm
ác, đời sau con cháu chịu quả ác. Quả báo tự ai làm thì người ấy chịu, con cháu
chỉ ảnh hưởng một cách gián tiếp, không phải trực tiếp. Như vậy có thể biết,
mặc dù đời nay hay đời trước làm việc xấu, chúng ta cần phải nỗ lực chuyển đổi
những hành động đó. Chúng ta không sửa đổi là do chúng ta không có trí tuệ,
chưa tin và chưa hiểu sâu sắc về đạo lý nhân quả. Nếu chúng ta có thể giữ gìn
nguyên lý, nguyên tắc bình thường, có thể trì giới, giữ tâm thanh tịnh thì trí
huệ sẽ phát sanh, khi đó chúng ta sẽ có đủ năng lực chuyển đổi tất cả. Dù ác
nghiệp có nặng đến đâu, chúng ta cũng có thể chuyển đổi được, tất cả đều tùy
thuộc ở năng lực quyết tâm và trí tuệ của mỗi người./.
(Trích:
Phật giáo là gì: Pháp sư Tịnh Không- Tâm An dịch)
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét