Ý NGHĨA NGHI CÚNG THÍ THỰC CÔ HỒN
Nghi cúng thí thực Cô Hồn Việt Nam ta gọi là “cúng cháo ”. Nghi thức cúng thí thực trai
đàn gồm có Đại Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn. Mông-Sơn là tên của một ngọn núi ở
trung Quốc, tại tỉnh Tứ Xuyên. Vào đời Tống có một thiền sư trú ở trên núi đó
tên là Bất Động. Chính Ngài đã chế tác ra nghi thức Đại Mông Sơn và Tiểu Mông
Sơn. Trên đỉnh núi Mông Sơn có những cây trà
rất ngon, vì leo lên đỉnh núi rất
khó, nên người ta phải nuôi khỉ để chúng leo lên hái lá liệng xuống. Trà trên
đỉnh núi rất ngon và lại rất hiếm, mỗi năm người ta lấy trà Mông Sơn để gởi về
dâng vua, nhưng số lượng rất ít. Tuy ở dưới chân núi cũng có trà nhưng không
ngon bằng. Trà Mông Sơn gọi là trà Mông, trong nghi thức cúng linh có câu :
Dương tử giang tâm thuỷ.
Mông Sơn đỉnh thượng
trà,
Hương
linh tam ẩm liễu,
Tảo sinh pháp Vương gia.
Nghĩa
:Nước lấy ở giữa dòng
sông Dương,
Trà lấy ở đỉnh núi Mông,
Hương linh được uống ba ngụm
Thì có thể sanh vào nhà Đức Pháp Vương.
(Nhà Pháp Vương là nhà Phật Pháp ).
Thiền sư Bất Động ở núi Mông đã nghiên cứu những kinh Mật
Tông có từ đời Đường và đã sáng chế ra nghi thức cúng thí cô hồn. Nghi thức này
đã được áp dụng trong các đàn trai chẩn tế và được áp dụng tụng đọc mỗi ngày
trong các chùa. Vì thế nghi thức này có tên là Mông Sơn Thí thực Cô Hồn, là
phát xuất từ núi Mông, và từ thiền sư
Bất Động mà có ra.
Nghi thức cúng này đối tượng của việc cúng trước hết là cô
hồn. Cô hồn là những linh hồn không nơi nương tựa, không ai thờ tự, cô hồn có
nghĩa là tâm hồn cô đơn, cô độc, hồn là linh hồn. Cô hồn có chổ nói có 36 loại
cô hồn, (tam thập lục bộ cô hồn ), lại có chổ nói 12 loại cô hồn (thập nhị loại
cô hồn ), nói rộng ra thì là 36 loại, nói gọn lại thì 12 loại. 12 loại này được
tính trên từ vua quan, tể tướng, công hầu, khanh tướng dưới cho đến những kẻ
sĩ, nông, công, thương, tu sĩ, Phật tử và những hạng ăn mày, ăn xin v. v...
Nơi đây chúng ta thấy tính bình đẳng trên nhân quả mà đạo
phật chỉ cho chúng ta thấy. Dù vua quan, tể tướng, công hầu v.v...cho đến kẻ giàu người nghèo, kẻ sang người hèn, kẻ tu hành,
phật tử đi nữa, nếu không dứt sạch phiền não, còn gây nghiệp bất thiện, còn
tham sân, sẽ đoạ làm ngạ quỷ, súc sanh, làm ma làm quỷ, cũng phải chịu trả cái
quả không tốt mà ở dương trần đã tạo, sẽ làm kiếp cô hồn. Trong nghi thí thực
chia làm ba đối tượng 1- là phật tử (gồm có tu sĩ và cư sĩ) là những người đã
quy y Phật pháp tăng nhưng tu không trọn đường tu nên phải đoạ làm cô hồn. Đối
tượng thứ hai là hửu tình, là những chúng sanh có tình thức (tức tấc cả mọi
loài chúng sanh). Thứ ba là cô hồn. Như vậy đối tượng thứ ba có thể bao gồm cả
hai đối tượng trước.
Nơi đây, đối tượng cúng là cô hồn, cho ta một ý nghĩ liên
tưởng sẽ có một linh hồn cô độc, sau khi chết vất vưỡng đó đây, đầu gành mé
biển, ngọn cây ngọn cỏ, chổ ở không có, thức ăn thức uống cũng không, kẻ an ủi vổ về cũng vắng bóng. Quanh năm suốt
tháng không người đoái hoài; nhưng như
vậy thì nếu người có lòng tin nơi tín ngưỡng Phật giáo thì họ sẽ tin, và người
không có tín ngưỡng tôn giáo, người ta sẽ không tin và sẽ công kích lại ý tưởng
này, họ sẽ cho là lời bịa đặt, rũ rê mê tín dị đoan nhãm nhí không thực.Chúng ta
nên biết, lời Phật dạy không riêng gì cho một loại chúng sanh, mà là cho tất cả
loại, người sống cũng như người đã chết (loại thấy được bằng mắt loại không
thấy được bằng mắt). Và trong kinh đại thừa Phật giáo lời dạy của Phật được
diển tả bằng những ngôn ngữ ẩn dụ, từ ẩn
dụ đến vô ngôn, chứ không phải nhất quyết nói thẳng ra. Đọc lại kinh Pháp Hoa ở
phẩm Thí dụ Phật nói ta sẽ thấy rõ điều này :
“.....Lại có các
loại quỷ dữ Dạ xoa, nuốt ăn cả thịt người, các loài trùng độc dữ, những cầm thú
hung ác...chúng giành bắt mà ăn đó. ăn đó no nê rồi, lòng hung dữ thêm hăng,
tiếng chúng đánh cãi nhau, thật rất đáng
lo sợ... buông lung chơi cùng giởn, nắm hai chân của chó, đánh chó la thất
thanh, lấy chân đạp trên cổ, khủng bố
chó để vui... Có loại quỷ thân nó cao lớn, trần truồng thân đen xấu, rền tiếng
hung ác lớn, kêu la tìm món ăn...Lại có
các giống quỷ, cổ nhỏ bằng kim, đầu tóc rối bung lên...trên đầu lửa bực cháy,
đói khát rất nóng khổ, sản sốt chạy quàng lên....Độc hại cùng tai lửa, các nạn
chẳng phải một... ”.
Qua một số ẩn dụ trong kinh Pháp Hoa cho chúng ta thấy :
Những ẩn dụ nầy nói lên tâm trạng xấu xa ác độc, những tâm lý loạn tưởng căng
thẳng, sân hận, thù hèn, ganh tỵ, tham lam, lo âu buồn chán, nói chung là thất
tình lục dục trong mỗi con người chúng ta chứ không đâu xa.
Quỷ và ngạ quỷ ở đây không đâu xa chính là tâm lý trong mỗi
người chúng ta. Khi tâm khao khát ái dục lúc đó tâm ác khởi lên chính ta đã là
quỷ và ngạ quỷ. Quỷ dụ cho tâm ác, chó dụ cho đối tượng khổ. Khi ta không vừa
lòng một ai, tâm ác ta khởi lên muốn người mà ta ghét phải khổ, nhìn thấy sự
thất bại của họ ta mới thoả mãn làm vui (quỷ khủng bố chó để vui ). Lại có loại
quỷ thân nó cao lớn, dụ cho hạng người tự cao tự đại, ỷ quyền cậy thế. Thân
trần truồng, dụ cho sự không biết xấu hổ, hạng người không có đạo đức. Thân đen
xấu, dụ cho không có chút thiện tâm, ác tâm đầy dẫy. Khi ác tâm đầy dẫy thì sự
hung ác của họ không bao giờ dừng, càng được càng tham, càng hơn càng tự đắc.
Sự tranh danh đoạt lợi đưa đến chổ giành giựt tranh cải bất tận. Chung cuộc
cũng chỉ vì tìm miếng ăn mà kêu la inh ỏi.
Đầu tóc rối bung lên, dụ cho vọng tưởng, ác tưởng ắp đầy.
Trên đầu lửa cháy, dụ cho sự căng thẳng của sự lo toan tính toán hơn thua...Cổ
nhỏ mà bụng to, bụng to dụ cho lòng tham không đáy. Cổ nhỏ dụ cho sự hẹp hòi;
Thâu tóm càng nhiều mà cho ra, bố thí thì nhỏ giọt. Lại nữa, khả năng thì ít
(cổ nhỏ) tham vọng thì nhiều (bụng to), hoặc làm ra của cải trăm, ngàn,vạn mà
chỉ tiêu thụ một vài đồng. Làm ra nhiều mà chi tiêu rất ít. Hoặc cả đời bòn mót
cực khổ làm nên sự nghiệp lớn lao, nhưng mà hưởng thụ chẳng bao nhiêu, sống
chẳng bao lăm năm, rốt cuộc rồi cũng trắng tay ra đi...
Qua đoạn kinh Pháp Hoa phẩm thí dụ cho chúng ta thấy, không
phải chết đi mới thành cô hồn, khi còn đang sống chúng ta đã là cô hồn rồi, và
chung quanh chúng ta cũng thấy rất nhiều cô hồn. Nhất là trong thời đại văn
minh khoa học này, người ta chỉ sống bằng vật chất hơn là tình cảm, sống trong
chủ nghĩa thực dụng. Vật chất lên cao tinh thần đạo đức xuống thấp, có biết bao
thanh niên chạy theo chủ nghĩa vật dục, quên đi truyền thống tốt đẹp ngàn đời
ông cha ta để lại, đánh mất cội nguồn tâm linh, huyết thống của gia đình, của
tổ tiên. Khi đã đánh mất truyền thống,
thì dù có đang sống chung quanh bà con thân hửu họ trở thành những người xa lạ.
Những cô hồn như thế, chúng ta có thể tiếp xúc được, và
nhận thức của chúng ta bằng tai bằng mắt cũng thấy được. Và ngay trong tăng
thân của chúng ta, ta hoặc huynh đệ chúng ta, nếu không tu hành đúng giới luật,
đúng lời Phật dạy, trái ra ngoài quy luật của thiền môn. Hiện tại
chúng ta sống ngoài vòng giới luật, tức ngoài tăng thân, chúng ta trở thành cô
hồn trong kiếp sống hiện tại. Khi đã trở thành cô hồn thì tâm trạng rất đau khổ
và trống vắng, vì không có nơi nương tựa. Vì chúng ta đã vô tình đánh mất nơi
nương tựa chúng ta sẳn có. Chúng ta đang sống với những người chung quanh mà ta
không có mối liên hệ thân thiện với mọi người, và mọi người cũng không có tình
cảm đối với ta. Lúc đó ta cảm tưởng bơ vơ lạc lõng, chính sự trống trải đó làm
ta đau khổ. Trên cuộc đời có nhiều cái rất mầu nhiệm mà ta lại không cảm nhận
được, trí tuệ và tâm lý của ta bị khép lại,không đủ sức nhận lãnh sự mầu nhiệm
của cuộc đời, nào là thầy tổ, bạn bè xã hội cho mà ta không hấp thụ được. Ta
trở nên người thiệt thòi, ví như cái ve dầu nhị thiên đường, dù có đổ mạnh vào
một gày nước nhưng bên trong ve dầu vẫn không tiếp nhận được vì cổ nhỏ quá.
Cho nên khi thực hành nghi thức cúng thí này, chúng ta
không chỉ nghĩ là cúng cho những chúng sanh đã chết, mà là cũng cúng (khai thị)
cho những người còn đang sống. Chúng ta nên biết trong cuộc sống hằng ngày
chung quanh chúng ta có rất nhiều người đang đau khổ vì thiếu thốn. Chính vì
tâm trạng đau khổ và thiếu thốn đó là những nhân tố tạo nên cô hồn (hồn cô
đơn). Sự đói khát ở đây không hẳn là sự đói khát về cơm ăn áo mặc, chổ ở, mà
nhất là sự đói khát về tình thương, thiếu thốn về sự hiểu biết, đói khát về đạo
đức v.v... nên cô hồn có những lúc cũng chính là mình. Chúng ta
thường nghe có nhiều người than phiền: chưa ai hiểu tôi cả, đó là hạt giống cô
hồn.
Chúng ta than, chưa ai thương mình,
chưa ai hiểu mình, nhưng mà chắc gì ta đã thương mình và hiểu mình một cách
thật sự. Niềm tủi thân đó là nhân tố, là dấu hiệu của hạt giống cô hồn trong
mỗi người chúng ta.
Cô hồn nếu không được cứu độ lâu ngày thì trở thành ma đói,
gọi là ngạ quỷ. Ngạ quỷ thường được mô tả là có một cái bụng to lớn còn cái cổ
họng thì nhỏ như kim. Bụng lớn chỉ cho tham vọng rất nhiều, sự mơ ước chưa
xong, sự khổ sở bức bách chưa giải toả. Cổ họng nhỏ dụ cho không có khả năng
tiếp nhận. Ví dụ như người ta chỉ có một đồng nhưng muốn ăn một bát phở ngon 15
đồng thì khó mà thực hiện được. Khả năng ít mà hoài vọng thì nhiều, tham vọng
chưa đáp ứng thì khổ sở càng gia tăng, và nó nung nấu con người trong lo âu
phiền muộn bất an.
Với những cô hồn như vậy, nếu không có duyên với phật pháp
thì khó mà giải toả nổi oan khiên. Nhưng cô hồn ấy tuy đang đói khát về sự hiểu
biết và tình thương yêu, nhưng dầu có người đem hiến tặng hiểu biết và thương
yêu họ cũng làm ngơ không tiếp nhận mà còn nghi ngờ. Họ nghi rằng đây là sự
hiểu biết giả và sự thương yêu giả, hoặc do kiến chấp, do nghiệp chướng sâu dày
quá nặng nên không đủ phước duyên để tiếp nhận.
Nghi thức thí thực này dựa trên tinh thần giáo lý của kinh
Hoa Nghiêm,là tất cả do tâm biểu hiện. Tâm chúng ta như một hoạ sĩ, có thể vẽ
ra tất cả mọi vật; thế giới của chúng ta
là do tâm sáng tạo. Tâm cộng đồng và tâm cá nhân. Địa ngục cũng do lòng người,
Tịnh độ cũng do lòng người mà phát hiện ra. Nếu muốn có địa ngục thì ta chỉ cần
vẽ ra địa ngục, nếu muốn có tịnh độ ta chỉ cần vẽ ra tịnh độ, và ông thợ vẽ ấy
là Tâm chúng ta. Ta có thể sáng tạo ra một tịnh độ cho riêng ta và cho những
người chung quanh ta,cùng chung sống với ta.Và ngược lại tạo địa ngục cũng như
thế,Ta tạo ra cảnh địa ngục để ta chịu khổ và để làm khổ cho những người tới
với chúng ta. Đó là giáo lý đầu cơ bản của tư tưởng kinh Hoa Nghiêm, và giáo lý
thứ hai là “trùng trùng duyên khởi”, là phải có nhiều lớp duyên khởi trùng
trùng với nhau thì mới có thể làm cho một hiện tượng biểu hiện ra được. Cái
“Một” được làm bằng cái tất cả, và cái tất cả được thấy trong
cái ‘‘một ”.
(một là tất cả, tất cả là một).
Câu đầu của Tiểu
Mông Sơn bằng câu :
Nam Mô Diện Nhiên Vương Bồ Tát.
Diện Nhiên Vương là một vị Bồ Tát có khuôn mặt
rất dữ tợn. Diện Nhiên là bộ mặt có lửa cháy bừng. Bồ Tát Quán Thế Âm thì có
khuôn mặt rất hiền từ, nhưng Diên Nhiên Bồ Tát lại có khuôn mặt dữ tợn. Lửa
cháy từ hai con mắt, lửa bốc ra từ miệng và hai tai. Tại sao Bồ Tát lại có bộ
mặt dữ dằn như thế? Tại vì ở đây cần phải có một nhân vật có thể điều phục với
những thành phần thuộc hạng ác đạo như địa ngục, ngạ quỷ. Vì vậy phải có một
nhân vật rất cứng rất hùng mới có thể nhiếp phục được hạng đầu trâu mặt ngựa,
giống như đảng cướp côn đồ, chỉ có kẻ đàn anh đàn chị họ mới trị nổi, nói họ
mới nghe, ở đây trong hạng này không thể dùng hạnh từ bi mà trị được,
cho nên Bồ Tát với lòng từ bi thị hiện, một loại đại quỷ vương, có uy lực, có
sự dữ dằn mới nhiếp phục được. Nhưng nhìn vào chiều sâu chúng ta thấy có một
tình thương rất rộng lớn, và ở trong đó không ai khác. Diện Nhiên Vương Bồ Tát
là sự thị hiện của Đức Quán Thế Âm. Đây là một hạnh gọi là đồng sự nhiếp (trong
tứ nhiếp pháp ). Cũng như trong xã hội đối với những bọn côn đồ, thì phải có
những hình thức rất kiên cường mới trị được, như nhà tù, ông cai tù và những
công an cảnh sát, dùng những biện pháp mạnh mới nhiếp phục được sự cang cường
của họ.
Cho nên trong bài tán trạo của nghi
thức chẩn tế có hai câu: “Cứu khổ Quan Âm,thị hiện Tiêu Diện Quỷ ”. Quỷ Tiêu
Diện tức là một quỷ sứ lãnh đạo chúng quỷ, làm thủ lãnh quỷ sứ phải có cái bộ
mặt dữ dằn và cứng rắn mới điều phục được ngạ quỷ. Tiêu Diện người ta gọi tắt là ông
Tiêu. Tiêu Diện đại vương cầm một lá cờ và thống lãnh các đoàn quỷ sứ đi theo sau,
dưới quyền điều khiển của ông Tiêu, để tham dự vào các pháp hội cúng dường tại
các chùa. Để có trật tự các giới ngạ quỷ và cô hồn có dịp được nghe kinh và
tiếp nhận thức ăn do nhà chùa cúng dường, để chuyển hoá và sanh về Tịnh độ.
Bốn câu kế tiếp :
Mãnh hoả diệm diệm chiếu thiết thành,
Thiết thành lý diệm nhiệt cô hồn,
Cô hồn nhựơc yếu sanh Tịnh độ,
Thính tụng Hoa Nghiêm bán kệ kinh.
( Lửa
dữ bừng bừng cháy bốn bên,
Cô hồn
nóng bức khổ triền miên,
Cô hồn
nếu muốn sanh Tịnh độ,
Thì
hãy lắng nghe kệ Phật truyền ).
(
Hãy lắng nghe bài kệ của Kinh Hoa Nghiêm ).
Lửa dữ bừng bừng cháy là diển tả cái cảnh bức bách ở địa
ngục. Địa ngục có lửa, không những lửa cháy ở một bên mà cháy luôn cả bốn bên.
ý nói không có chổ trốn tránh, giống như trong một lòng chảo dù có muốn thoát
ra cũng không được. Lửa ở đây không hẳn lửa ở địa ngục, mà cũng là lửa nóng
giận, lửa tham, lửa si luôn luôn có trong lòng ta. Ai đã từng trãi qua những
giai đoạn khổ đau thì biết thế nào là lửa địa ngục. Địa ngục được định nghĩa là
nơi chốn bất như ý, hay là trạng thái bất như ý. Cái cảnh hoặc cái tình huống
không làm cho ta thoả mái thư giản được. Như vậy ta có thể nói có hai loại địa
ngục, địa ngục bên ngoài ta và địa ngục
bên trong tâm ý ta. Nhưng đây chủ yếu là địa ngục bên trong tâm ta. Tuy nói là
địa ngục bên ngoài ta nhưng nó cũng có sự liên hệ với tâm ý ta bên trong nên nó cảm vời cái địa ngục bên
ngoài. Địa ngục bên trong là nghiệp nhân, địa ngục bên ngoài là nghiệp quả. Địa
ngục còn có một ý nữa. Địa là dày, ngục là giam giữ. Với những tư tưởng, với
những thành kiến, với những kiến thức hẹp hòi, cố thủ đó là địa ngục.Tư tưởng
và kiến chấp nó còn cứng chắc hơn bê
tông cốt sắt. Cho nên người ta nói : Làm chính trị sai hại một thế hệ, làm văn
hoá sai hại muôn đời. Cái tư tưởng xấu ác, kiến thức chấp thủ, cái tập tục mê
tín dị đoan thường di truyền từ lớp người này sang lớp người khác, từ thế hệ
này sang thế hệ khác, chỉ làm khổ cho nhau chứ thực sự không giải thoát an vui.
Ví dụ như tập tục trọng nam khinh nữ, thời nào cũng có, ở đâu cũng có. Cái khổ
đó được diển tả là cái khổ triền miên, cái khổ không bao giờ chấm dứt.
Tiếp đến là bài kệ của
kinh Hoa Nghiêm :
Nhược nhơn dục liễu tri,
Tam thế nhất thiết Phật,
Ưng
quán pháp giới tánh,
Nhứt
thiết duy tâm tạo.
Nghĩa :Nếu ai muốn thấy và muốn biết,
Thì người ấy phải quán chiếu pháp giới,
Chư Phật có mặt trong ba đời
Tất cả đều do tâm tạo ra mà thôi.
Tình huống chung, ai đang ở trong hoàn cảnh bức xúc khổ sở
cũng ước mơ một nơi an lạc hạnh phúc để yên thân, đó là Tịnh độ. Khi đang ở
trong cảnh nóng bức, người ta luôn luôn khao khát đến nơi mát mẻ thanh lương.
Và cô hồn nếu muốn sanh lên Tịnh độ thì phải lắng nghe và hiểu một câu nói của
Phật đã nói. Đó là bài kệ mở đầu cho nghi thức cúng thí. Lời bài kệ này rất
quan trọng. Vì bài kệ này chính lời đức Phật đã nói trong kinh Hoa Nghiêm. Bài
kệ là lời khai thị cho chúng cô hồn thực tập phép quán chiếu lại tự tâm. Tự tâm
mỗi người vốn thanh tịnh nhưng do vọng tưởng khởi lên nên phiền não quấy động,
khiến chúng sanh cảm ứng thành nghiệp cô hồn.Tất cả những tội lỗi, phiền não
đều do ta tạo, do tâm ta sáng lập. Đó gọi là duy tâm. Liễu tri là sự hiểu biết
tận gốc, biết một cách rốt ráo, không có mơ hồ.Người nào muốn biết một cách
tường tận thế nào là các đức Phật trong ba đời, quá khứ hiện tại và vị lai thì
cần phải nhìn sâu vào bản chất của pháp giới. Thường chúng ta phân biệt thế
giới và pháp giới khác nhau. Thế giới là nói hạn chế trong phạm vi quả địa cầu
chúng ta đang ở, còn pháp giới bao gồm cả hằng hà sa thế giới. Đó là cái nhìn
của người phàm chưa chứng ngộ. Người
đã chứng ngộ rồi thì nhìn thế giới cũng chính là pháp giới. Trong thế giới của
người phàm tục chưa chứng ngộ thì thấy cái này nằm ở ngoài cái kia,và vạn vật
có có không không, có tới có đi, có sanh có diệt. Còn người giác ngộ thì không
thấy thế giới mà chỉ thấy pháp giới, tức là thấy được tính duyên sanh của mọi
sự mọi vật. Cái này không nằm ngoài cái kia, mà cái tất cả nằm trong cái một,
và cái một nằm trong cái tất cả.Thấy được như vậy là thấy được pháp giới, còn
thấy có sự chia rẻ, có sự cô đơn, có sự kỳ thị thì cái đó còn là thế giới. Tâm
chưa giác ngộ thì chỉ thấy thế giới, còn tâm đã giác ngộ rồi thì thấy thế giới
ta thấy được pháp giới. Chúng ta phải biết rằng địa ngục mà trong đó chúng ta
đang sống là một sáng tạo của tâm thức cá nhân và cộng đồng, và chúng ta có thể
thoát ra được. Nếu tâm tạo ra địa ngục thì tâm ta cũng có thể làm ngưng địa
ngục. Nếu chúng ta làm cho tâm tịnh độ phát hiện, thì tự nhiên tịnh độ sẽ phát
hiện. Chán ngán hoả ngục, mong ước tịnh độ thì tự nhiên tâm ta sẽ hướng về tịnh
độ. Quay lưng lại địa ngục và xoay mặt về tịnh độ, thì thế nào tịnh độ cũng
hiện bày. Đó là giáo lý yếu chỉ của kinh Hoa Nghiêm. Là người cúng thí phải
thấu hiểu, và là người hành trì, ta phải nắm vững giáo lý này, vì chính tâm
thức của ta mới khai thị được nẽo thoát cho cô hồn. Cô hồn là những người,
những tâm thức đói khát, khổ đau, cô đơn. Vì thế ta phải làm thế nào để giúp
cho cô hồn mở mắt ra được (tức khai thị ) làm thế nào để cô hồn mở rộng cổ họng
ra được (khai thị, làm cho cô hồn nhận thức rõ được sự thật của cuộc đời, tức
thấy được sự thật ; làm cho mở rộng cổ họng tức là phát tâm rộng lớn, xả bỏ
kiến chấp hẹp hòi, (thay đổi tính xấu ác).
Vai trò người cúng thí rất quan trọng,
trong lúc cúng thí ta là vai trò của Bồ Tát Quán Thế Âm. Người cúng thí
phải có định lực, phải có sức kiên nhẫn, mới có năng lựợng nội lực để chuyển
hoá, để khai thị cô hồn. Vì thế trong nghi thức cúng thí ta phải vận dụng với
tất cả tâm chí thành của ta, trong khi tụng đọc kinh chú ta phải hết sức vững
chãi, không nên làm vụt chạc lấy lệ, và phải an trú trong định. Nếu trong khi
cúng thí tâm ta vướng bận sự buồn giận thì rất tội nghiệp cho cô hồn, và cũng
rất tội nghiệp cho ta. Bởi vì chúng ta làm như một cái máy, chỉ làm được phần
hình thức mà thôi.
Có câu chuyện kể rằng : ngày xưa có một vị kinh sư, nhận
lãnh một diên trai đàn chẩn tế cho một chùa nọ. Trong lúc thực hành pháp sự,vị
kinh sư nhớ ra lúc mình rời chùa ra đi, quên không đóng cửa phòng, và bộ chìa
khoá không biết nó lạc ở đâu? Do đó suốt buổi cúng thí, vị kinh sư chỉ nhớ đến
đùm chìa khoá, do đó lúc cúng không nhất tâm đến việc ban bố thức ăn bằng cơm,
bằng cháo, mà chỉ nghỉ đùm chìa khoá, do
đó cô hồn không nhận lãnh được thức ăn nào cả, chỉ thấy toàn là chìa khoá bằng
sắt bằng đồng. Cho nên xong viên cúng, vị kinh sư về rồi, khuya đến vị chủ đám
mới bị cô hồn đến phiền trách về việc không nhận được thức ăn như ý. Hôm nay
ông cho tụi chúng tôi ăn toàn chìa khoá bằng sắt, cho nên không hưởng được gì
cả. Vị chủ chùa mới thưa lại câu chuyện cô hồn phiền trách với vị kinh sư như
vậy. Vị kinh sư nhớ lại tâm trạng lúc thực hành pháp sự, tâm ý không ổn, chỉ
nhớ đến việc mất chìa khoá, cho nên cô hồn không ăn được là phải. Và vị kinh sư
phải bán đồ của mình tổ chức lại viên cúng khác. Câu chuyện ở đây cho ta thấy
tâm lý lúc cúng thí rất quan trọng, cho nên chúng ta cần phải cẩn thận trong
khi cúng thí, để đem lại lợi ích âm dương lưỡng lợi
Phần trên là phần khai thị giáo lý siêu việt của kinh Hoa
Nghiêm mà Phật đã dạy. Thứ đến là phần trì chú ; câu chú đầu tiên là câu thần
chú phá địa ngục. Chúng ta biết địa ngục tạo ra bởi tâm thì khi phá địa ngục
cũng phải dùng tâm mà phá, chứ không phải phá bằng dụng cụ như búa, kèm,bom đạn,
chất nổ v.v...
Chân ngôn phá địa ngục.
Án dà ra đế da tá bà ha.
Sau khi tụng chân ngôn phá địa ngục rồi thì ta tụng đến
chân ngôn phổ triệu thỉnh.
Phổ triệu thỉnh chân ngôn
Nam Mô bộ bộ đế rị dà rị đa rị đát tha nga đa da.
Phổ triệu thỉnh là mời hết, không chừa ai. Tất cả những
người khổ, tất cả những loài đang khổ, dù trong địa ngục nào ta cũng mời hết,
vì cúng dường ở đây là cúng dường không phân biệt; không kỳ thị,
dù là người có tôn giáo hay không tôn giáo, da đen hay da trắng v.v...cũng đều mời thỉnh đến dự. Tinh thần cúng thí này gọi là
tinh thần “Vô giá ”. Vô Già là không ngăn ngại,
không tạo ra một trở lực nào cho bất cứ một ai. Mở rộng hết cửa,tất cả
ai cũng được vào hết, đều có cơ hội như nhau. Khi tổ chức một cuộc chẩn tế đàn
chay như thế gọi là Vô già hội. Tiếp đến tụng chân ngôn mở oan kết.
Mở oan kết chân ngôn :
Án tam đà ra già đà ta bà ha.
Oan kết là những sợi dây oan ức.
Giải oan là giải trừ nổi oan ức trong lòng của cô hồn xưa nay chưa giải toả
được. Phật dạy rằng, muốn chấm dứt oan khổ thì phải dùng từ bi, hỷ xả ;
nếu giải quyết bằng oán hận thì oan khổ không bao giờ chấm dứt. “Lấy oán
báo oán, oán ấy chập chùng; lấy đức báo
oán, oán tiêu tan”. Nếu ta lấy sự oán hận để đáp thù lại oán hận thì oán hận ấy
sẽ kéo dài bất tuyệt, còn nếu lấy đức từ bi và hiểu biết mà đáp ứng với cái oán
thù thì oán đó sẽ tiêu tan, đó là giáo lý giải oan của phật. Lấy tình thương
đối lại hận thù thì ta có thể chấm dứt được luân hồi của hờn oán và đó là chân
ngôn mở oán kết. Chúng ta phải dùng sự hiểu biết và thương yêu để đáp ứng lại
hận thù và bạo động, thì đó mới đúng với lời Phật dạy, và chỉ khi nào chúng ta
nghĩ được và làm được như vậy, thì câu thần chú này mới thành ra hiện thực mà
thôi. Ba câu chân ngôn này khi tụng lên ta tụng với cái tâm hiểu biết và thương
yêu mới được. Khi tụng như vậy thì hạt giống từ bi, sự hiểu biết và thương yêu
trong chúng ta được lớn mạnh dần, từ đó chúng ta có được sự nội lực của nguồn
năng lượng của Phật và chư Bồ Tát. Có như thế cô hồn mới tiếp nhận được. Người
cúng thí trước hết phải có năng lực thật mạnh mới có thể phá được địa ngục, mới
khai mở yết hầu và giải oan cho chúng cô hồn. Nếu người cúng đang ở trong tình
trạng thiếu năng lượng,đang bị giam hảm của nội kết, thì không có cách gì phá được địa ngục cho
người khác. Ví như người đang sầu khổ mà đi an ủi giải thích cho người sầu khổ
như ta thì không thể được.
Thứ đến đọc câu tựa đề của kinh
Hoa Nghiêm :
Nam Mô Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh.
Đây là niệm pháp, vì kinh Hoa Nghiêm là cơ bản sự thực tập
của sự cúng dường này. Thay vì niệm Phật trước thì ta lại niệm pháp trước.
Phương quảng là rộng
lớn, Đại Phương Quảng là rất rộng lớn,
Phương quảng là mở rộng ra, chỉ bày những chân trời giáo pháp rộng lớn
hơn. Hoa Nghiêm tức là làm cho đẹp, làm cho trang nghiêm bằng hoa.
Kế đến niệm :
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Phật
Nam Mô Thường trụ Thập Phương Pháp.
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Tăng.
Ba câu niệm nầy là để hướng dẫn cho các cô hồn biết hướng
về Tam Bảo để quy y. Vì địa ngục đã mở, cô hồn đã được mời đầy đủ, oan kiết đã
giải, bây giờ niệm Phật niệm pháp, niệm tăng để cho tâm tư cô hồn được thư giản,
và cũng là cầu oai lực của ba ngôi Tam bảo gia trì cho chúng cô hồn giải trừ
những nội kiết.
Thường trú nghĩa là luôn luôn có mặt, luôn luôn hiện diện.
Phật, Pháp,Tăng không phải chỉ có mặt ở quá khứ hay ở địa phương nào, mà là có
mặt trong hiện tại và ngay cả địa phương này và luôn luôn có mặt ở trong giây
phút hiện tại và bây giờ và ở đây.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Minh Vương Cứu Khổ Địa Tạng
Vương Bồ Tát.
Nam Mô Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả.
Đại Tạng Vương là một vị Bồ Tát
có nguyện rộng lớn, Ngài nguyện nơi nào
có địa ngục thì nơi đó Bồ Tát phải có mặt. Cho nên danh hiệu của Ngài là: Minh
Dương Cứu khổ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát. Minh tức là cõi u minh,tức là cõi âm
phủ, còn minh ở đây không có nghĩa là sáng mà là tối; u minh là cõi tối tăm mờ
mịt, không có ánh sáng, chỉ cho cõi âm phủ. Còn Dương tức là cõi trần thế dương
gian, cõi người. Như vậy Ngài Địa Tạng Bồ Tát không chỉ giáo hoá người cõi âm
mà cũng giáo hoá người cõi dương nữa, cho nên gọi là Minh Dương Cứu Khổ Địa
Tạng Vương. Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng Vương là một hình ảnh tiêu biểu, vì
chính ở đây đối tượng cúng dường,đối tượng của tình thương và sự thực tập là
những cô hồn. Vì vậy vai trò của Bồ Tát Địa Tạng rất quan trọng trong sự chuyển
hoá cô hồn. Sự đau khổ có mặt trong cõi dương và cõi âm. Cõi dương nằm trong
cõi âm và cõi âm nằm trong cõi dương, đó là giáo lý tương tức, tương nhập.
Nam Mô Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả.
Khải giáo là mở ra giáo pháp.
Phương pháp cúng thí cô hồn là bắt nguồn từ Ngài A Nan khởi xướng cho nên niệm
Nam Mô Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả. Vì khi Phật còn tại thế, một đêm khuya thanh
vắng nọ, Ngài A Nan ngồi thiền định, thấy một con quỷ hiện ra, mặt mày dữ tợn,
lửa bốc cháy cả mặt, con quỷ đó tên là Diệm Nhiên (Mặt cháy). Quỷ nói với Ngài
A Nan rằng, ba ngày nữa thì mày sẽ chết
và sẽ thành quỷ đói như tao. A- Nan lo sợ, bèn hỏi có cách gì tránh khỏi được
không? Quỷ trả lời, nếu mày muốn tránh
thì ngày mai, mày cúng cho tụi tao mỗi đứa một hộc lương thực, thì mày sẽ khỏi
chết còn tao được sanh lên trời. A- Nan
lo sợ câu chuyện xảy ra, bằng bạch với Phật,
Phật dạy cho A Nan phương pháp cứu tế cô hồn, tức là nghi thức cúng thí
thực này, được bắt nguồn từ câu chuyện này nên niệm câu Khải Giáo A -Nan Đà Tôn
Giả.
Thứ đến đọc :
Quy y Phật, Quy y Pháp , Quy y
Tăng,
Quy y Phật lưỡng Túc Tôn,
Quy y Pháp Ly Dục Tôn,
Quy y Tăng Chúng Trung Tôn.
Quy y Phật kính, Quy y Pháp kính, Quy y Tăng kính.
Mấy câu trên là hướng dẫn cô hồn
đối trước ba ngôi Tam Bảo phát tâm quy y Phật, Pháp, Tăng, để được làm Phật tử.
(mấy câu này đọc ba lần).
Thứ đến hướng dẫn Phật tử, hửu
tình và cô hồn sám hối những tội chướng từ xưa đến nay đã gây ra.
Có những Phật tử thành công trong
việc tu tập, nhưng cũng có những Phật tử không thành công trong việc tu tập,
nên phải gánh chịu nhiều đau khổ. Vì vậy họ cũng cần được khai thị để sám
hối. Phát nguyện chuyển hoá và xa lìa địa ngục. Bởi vì Phật tử
cũng vẫn rơi vào địa ngục nếu tu hành không chín chắn. Khi hướng dẫn phật tử,
cô hồn sám hối, nhưng chính ta cũng phải sám hối. Bởi vì trong cuộc sống hằng
ngày chính chúng ta cũng đã từng vi phạm những lỗi lầm, từ thân miệng ý mà ta
không biết hết, cho nên không những
chuyển hoá cô hồn, phật tử, mà chính trong chúng ta cũng phải chuyển hoá. Có sự
chuyển hoá trong tâm chúng ta thì mới có được sự chuyển hoá bên ngoài chúng ta.
Phật tử sở tạo chư ác nghiệp,
Giai do vô thỉ tham sân si,
Tùng thân ngữ ý chí sở sanh,
Nhất thiết Phật tử giai sám hối
Phật
tử đã tạo ra các nghiệp xấu
Cũng
vì tâm niệm tham sân si,
Do
thân miệng ý phát sanh ra
Tất cả
Phật tử đều xin sám hối.
Hửu tình ..... . ......sám hối
Cô hồn ........... .Sám hối.
Phần trên hướng dẫn Phật tử, hửu tình
và cô hồn quy y Tam Bảo, Phần dưới hướng dẫn Phật tử, hửu tình, và cô hồn sám
hối.
Hai phần này thuộc về tự lợi, thứ đến
hướng dẫn Phật tử, cô hồn phát bốn hoằng thệ nguyện để làm sự lợi tha. Chính sự lợi tha mới đem lại an lạc cho ta và cho cuộc
đời. Đây cũng là pháp xa lìa địa ngục,
thoát khỏi hầm lửa,mở dây oan kết, và xả bỏ sự nghèo đói. Vì đau khổ, oán hận,
nghèo đói bắt nguồn từ sự vị kỷ mà ra. Và phần nầy là phần cơ bản của đại thừa
Phật giáo. Muốn tiến đến con đường Phật thừa, phải trãi qua con đường Bồ Tát
đạo. Tứ hoằng thệ nguyện là con đường Bồ Tát đạo mà mọi người Phật tử đều phải
hướng đến, có hướng đến ta mới có an lạc, chúng sanh mới có giải thoát. Cho nên
phải đọc lời phát nguyện.
Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ.
Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn.
Tự tánh pháp môn thệ nguyện học,
Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành,
Một khi tự tánh của chúng ta hoàn thành bốn thệ nguyện bên
trong rồi,thì bốn thệ nguyện bên ngoài chúng ta sẽ thực hiện được. Vì tâm có
phát thì đạo mới thành, nguyện có thành chúng sanh mới độ. Từ đó dẫn đến bốn
hoằng thệ nguyện hướng về lợi tha.
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Phát nguyện tức là thực tập đem một nguồn năng lượng vào
trong cơ thể và tâm hồn của ta. Vì khi chúng ta là những cô hồn vất vưỡng, thì
chúng ta không có nguồn năng lượng nào hết, không có sức sống, ta thấy thân tâm
rã rời, đối với cuộc đời không còn nghĩa lý gì hết, tình đời đen bạc, có lúc muốn quyên sinh.
Trong lúc đó, hành giả có được nguồn năng lượng thì sẽ cứu vớt được sự đau khổ
và thất vọng. Mỗi khi ta trông thấy chúng sanh đau khổ như vậy, muốn cứu trợ
họ, muốn họ vươn lên. Vì vậy mục đích của bốn hoằng thệ nguyện này, là làm cho
họ phát khởi Bồ Đề tâm trong tâm của cô hồn, của chúng sanh. Vì sao vậy? Bởi vì cô hồn tuy tâm trạng đau khổ và dữ dằn,
nhưng họ vẫn có hạt giống tốt đang nằm bên trong, hạt giống đó là Tâm Bồ Đề, và
ta đang thay thế Phật và Bồ Tát chỉ cho họ biết rằng, trong tâm họ cũng có hạt
giống tốt lành đó. Khi họ nhận biết và tiếp xúc được hạt giống Bồ Đề Tâm, thì
tự nhiên nguồn năng lượng ở bên trong con người họ bừng dậy. Và chính nguồn
năng lượng đó làm cho họ thoát khổ ra khỏi địa ngục và đi về cõi Tịnh độ.
Bốn lời thệ nguyện lớn này làm cho năng lượng Bồ đề tâm
sung mãn và chính năng lượng này đưa chúng ta ra khỏi thế giới của địa ngục.
Người ta hoặc cô hồn có thể nghi ngờ rằng, tại sao họ lại
có thể thực hiện được bốn hoằng thệ nguyện đó? Làm sao tôi có thể độ hết chúng
sanh?đoạn hết phiền não? Học hết pháp môn? Thành tựu được Phật quả? Mọi người ai cũng có hạt giống nghi ngờ trong tâm. Chúng ta
phải khai thị rằng khả năng đó, hạt giống của bốn hoằng thệ nguyện đó có sẳn
trong tự tánh của mọi chúng sanh. Chúng ta không cần tìm kiếm đâu xa. Chính mỗi
người,mỗi cô hồn đều có tự tánh của sự thành phật, của sự độ tha.
Sau khi hướng dẫn cho các giới cô hồn quy y và sám hối và
phát nguyện rồi, bây giờ đến phần cúng dường. Chú đầu là chú Diệt định nghiệp.
Chân ngôn Diệt Định Nghiệp :
Án bát ra mạt lân đà nảnh ta bà ha.
Diệt định nghiệp, tức là phá bỏ cái nghiệp coi như là tiền
định. Nghiệp riêng và nghiệp chung mà
chúng ta đã gây ra, đã đưa chúng ta tới nẻo đường đen tối và khổ đau của hôm
nay. Và chúng ta nghĩ rằng đó là định nghiệp,một hoàn cảnh không thể nào thoát
ra khỏi được.Nhưng một khi đã có sự can thiệp của chánh pháp, của tăng đoàn,
của chư Phật thì nghiệp quả đó lại có thể phá bỏ được, và chúng ta có thể thoát
ra khỏi tình trạng hiện tại. Cũng
ví như một người bị giam trong tù, thì
không có cách gì ra khỏi nhà giam được, nhưng một khi có sự can thiệp của những
người bên ngoài thì nhà chức trách và cai tù có thể mở cửa cho người đó ra được.
Nghiệp có hai loại,nghiệp nhân và nghiệp quả. Nghiệp nhân là những gì chúng ta
tạo tác ra và nghiệp quả là những gì chúng ta phải gặt hái. Nhưng nếu có sự can
thiệp của Phật, Pháp, tăng vào thì có thể có sự thay đổi. Giống như trồng bắp mọc lên rồi, mà trời cứ nắng mãi không có mưa thì bắp
không thể phát triển được,bắp dần dần khô héo. Nhưng chúng ta can thiệp vào,
bằng cách cho nước tưới thì bắp có thể tránh khỏi sự khô cháy. Đó là sự can thiệp
của yếu tố tự bên ngoài, mà sự can thiệp đó là sự can thiệp oai lực của Phật,
pháp, tăng.
Chân ngôn Diệt nghiệp chướng
Án a lỗ lặc kế ta bà ha.
Chướng tức là những trở ngại,
những chông gai và chướng ngại khiến ta không thực hiện được những gì theo ý ta
muốn. Đó là những yếu tố làm chướng ngại sự tu học, sự thành công, sự chuyển
hoá của chúng ta. Nhưng câu chân ngôn này có cả khả năng tiêu trừ nghiệp
chướng, tức là tháo gở được tất cả những chướng ngại trên con đường đi của mình.
Chân ngôn là những thần chú khi đọc lên có tác dụng thay đổi được tình trạng.
Nguyên tắc trì tụng chân ngôn là khi chúng ta đọc lên một câu chân ngôn thì ba
nghiệp ta phải thanh tịnh và hợp nhất. Thân khẩu ý hoàn toàn phối hợp với nhau
trong một trạng thái thiền định vững vàng thì câu chân ngôn đó mới có hiệu quả.
Chân ngôn
mở rộng yết hầu.
Án bộ bộ đế rị, dà rị đa rị,đát đa
nga đa da . (3 lần )
Trong kinh diển tả hình thể cô hồn đầu mình cổ họng đều
không tương xứng. Đầu to cổ thì nhỏ bụng lại lớn. Do nghiệp nhân đã tạo, quá
keo kiệt,quá bỏn xẻn, tham lam hẹp hòi, tính toán so đo, tham vọng vô cùng. Nên
sau khi chết nhận lãnh quả báo đầu to cổ nhỏ bụng thì lớn, đói khát thèm muốn
triền miên, nhưng không bao giờ có sự đáp ứng vừa ý. Vì thế câu chân ngôn này
có công năng mở rộng yết hầu của các loại quỷ đói, để nhận lãnh cơm cháo một
cách tự do. Trong khi cúng phải cúng với cái tâm từ bi thì cô hồn hưởng được.
Chân ngôn Tam
muội da giới.
Án tam muội da
tát đoả phạm. ( 3
lần )
Tam muội Da giới là một phép tiếp nhận
năng lượng chánh niệm, tức là phép mở cửa để cho cô hồn và quỷ đói có thể có cơ
hội gia nhập vào trong đạo tràng tu học của đoàn thể tu học.
Chân ngôn Biến thực.
Nam mô tát phạ đát tha,Nga đa phạ lồ
chỉ đế,
Án tam bạt ra,tam bạt ra hồng
Chân ngôn biến thực là chân ngôn nương
vào thần lực của phật và Bồ Tát để làm cho số lượng thức ăn đang dâng cúng trở
thành ra đầy đủ cho mọi thành phần tới tham dự. ở Việt Nam ta trong kho tàng
truyền kỳ có câu chuyện kể về anh chàng tên là Thạch Sanh. Anh có một nồi cơm
rất nhỏ và không biết anh đã học được phương pháp nào đó, mà cái nồi cơm nhỏ
của anh có thể xới cơm cho biết bao nhiêu người ăn mà không hết. Đó là khả năng
biến thực, nghĩa là khả năng làm cho no đủ tất cả mọi người, với một số lượng
thực phẩm rất giới hạn. Có lẽ câu chuyện
này ảnh hưởng đến tinh thần của câu chú biến thực nầy.
Trước khi ban phát thức ăn cho chúng
ngạ quỷ, cô hồn, có bài kệ chú nguyện rằng :
Pháp lực bất tư nghị
Từ bi vô chướng ngại,
Thất liệp biến thập phương,
Phổ thí châu sa giới.
Sức pháp không thể nghỉ bàn,
Từ bi không bị chướng ngại
Bảy hạt cơm biến khắp mười phương,
Khắp thí cùng khắp thế giới
Pháp
Phật thật phi thường
Bảy hạt cơm đầy cả mười phương
Cúng dường khắp tất cả
Từ bi không biên cương.
Thần lực của Phật rất phi thường, chỉ
có bảy hạt cơm thôi, mà thực phẩm biến thành vô số, Pháp giới rộng vô biên, nhưng bảy hạt cơm đó
có thể làm thức ăn cho tất cả chúng sanh trong pháp giới, lý do là lòng từ bi
không ngằn mé, không bờ bến, không ranh giới, không hạn cuộc, nên cảm được sự
diệu dụng như thế.
Ví như ta đến một nhà nghèo ăn một bửa
cơm đạm bạc, nhưng với tấm lòng hiếu kính quý khách, thì ta thấy bửa cơm ấy ăn
thật ngon và thú vị. Nhưng ta đến một nhà giàu cũng ăn một bửa cơm thịnh soạn,
nhưng với tâm trạng người chủ nhà không vui, không nhã nhặn, thì dù có cơm canh
ngon mấy chúng ta ăn không hứng thú. Cũng ví như chúng ta có tình thương với
nhau, dù nhà chật ta cũng có thể ngủ được 10 - 20 người, ngủ như cá sắp mà
không thấy chật mà lại thấy vui. Nhưng khi không có tình thương thì dù có 2, 3
người cũng đã cho là chật rồi. Cho nên tất cả đều tuỳ thuộc vào lòng từ bi. Vì
vậy với tâm từ bi thì không có việc gì chướng ngại, và thực phẩm cũng vậy.
Chân ngôn biến thuỷ.
Nam Mô tô rô bà gia,đát tha nga đa da,đát
điệt tha,án tô rô, tô rô, bát ra tô rô,bát ra tô rô, ta bà ha. (3 lần)
Giới quỷ đói rất khát nên cần nước
uống. Với nghiệp nhân chúng đã tạo thành kiếp quỷ đói, cơm cháo không có ăn,
ngay cả nước uống cũng không có, nếu có gặp được nước, uống cũng không được như
ý, nó sẽ biến ra máu lửa. Vì nghiệp lực nên không đủ phước để uống. Trong kinh
nói rằng : Con người thấy nước là nước, đôi khi cũng là cõi chết. Cá thấy nước
là nhà, là cung điện. Trời thấy nước mưa rơi là lưu ly. Tu la thấy mưa rơi là
gươm dáo. Ngạ quỷ thấy nước là khói lửa. Tùy nghiệp lực của mỗi chúng sanh mà
cảm vời sự báo ứng. Cho nên cúng đọc câu chú biến thuỷ nầy khiến cho giới ngạ
quỷ dùng nước được một cách tự do không bị trở ngại. Giới ngạ quỷ cổ nhỏ bụng
to cho nên thường khó tiếp nhận thức ăn cứng, vì thế có quan niệm khi cúng thí
có nước trong và cháo lõng là chủ yếu trong phẩm vật cúng cô hồn.
Nước tuy có mấy chén mà thôi, nhưng
nhờ thần lực của câu chân ngôn biến thuỷ, mà nước trở thành vô lượng, khiến cho
tất cả cô hồn đều dùng đủ.Uống nước này vào cô hồn cảm thấy giải trừ được sự
đói khát, sự khổ sở của họ đều tiêu tán.Trong khi tụng chân ngôn biến thực và
biến thuỷ, chúng ta phải có định tâm và phát khởi lòng từ bi đối với giới quỷ
đói đang bao quanh chờ đợi lòng thương của chúng ta, có như thế cô hồn mới cảm
nhận được,bèn không cũng tội cho giới cô hồn đến rồi không được chi hết.
Chân ngôn nhất tự thuỷ luân.
Án,noan noan noan noan noan. (3
lần)
Trong khi ta đọc câu chân ngôn này, thì nước dâng cúng
trở thành ra nước tám công đức. Nước tám công đức là thứ nước có thể làm cho
thoả mãn mọi khao khát, mọi nhu cầu đều được như ý. Nước tám công đức có công
năng rửa sạch những phiền luỵ khổ đau của con người từ tinh thần đến vật chất.
Chân ngôn nhủ hải (biển sữa)
Nam mô tam mãn đa một đà nẩm, án noan . (3 lần)
Nước
ta cúng dường đã trở thành ra sữa để cho những chúng sanh thiếu dinh dưỡng vì
đói khát lâu ngày có thể có nhiều chất đạm. Nhũ hải là biển sữa. Kế đến là ta
tụng Hồng danh của bảy vị Phật, có liên hệ đến nghi thức cúng dường này.
Nam Mô Đa Bảo Như Lai
Nam Mô Bảo Thắng Như Lai,
Nam Mô Diệu Sắc Thân Như Lai
Nam Mô Quảng Bác Thân Như Lai,
Nam Mô Ly Bố Uý Như Lai
Nam Mô Cam Lồ Vương Như Lai,
Nam Mô A Di Đà Như Lai.
Đức
Đa Bảo Như Lai ở về phía Đông ; Đức Bảo Thắng Như Lai ở về phía Nam; Đức Diệu
Sắc Như Lai cũng ở về phía Đông; Đức Quảng Bác Thân Như Lai cũng là Đại Nhật
Như Lai; Đức Ly Bố Uý Như Lai ở về phía Bắc. Cam Lộ Vương Như Lai và A Di Đà
Như Lai ở phía Tây. Đọc lên tên các vị Như Lai như vậy là để những chúng sanh,
các cô hồn ngạ quỷ có hiện diện được nghe danh hiệu các Ngài, để họ có thể phát
sanh ra lòng cảm mến quy thuận và được nhiều công đức.
Thần chú gia trì tịnh pháp thực,
Phổ thí hà sa chúng Phật tử,
Nguyện giai bảo mãn xả xan tham
Tốc thoát u minh sanh Tịnh độ,
Quy y Tam Bảo phát Bồ đề,
Cứu cánh đắc thành vô thượng đạo,
Công đức vô biên tận vị lai,
Nhất thiết Phật tử đồng pháp thực.
Thần
chú gia trì thức ăn tịnh,
Cúng
khắp mười phương chúng Phật tử,
Nguyện
đều no đủ bỏ xan tham,
Mau thoát u minh sanh Tịnh độ,
Quy y Tam Bảo phát Bồ Đề,
Rồi sẽ đạt thành đạo Vô thượng,
Công đức đi về cõi vị lai,
Tất cả Phật tử cùng tiếp nhận.
(
hửu tình (mọi loài) và cô hồn cũng đều nguyện như vậy ),
Đây là lời tâm sự, cũng là lời chúc tốt lành nhất của
người cúng thí, đối với Phật tử, với mọi loài và cô hồn. Mong rằng họ tiếp nhận
được lương thực,thức ăn nước uống và những gì cần đều được thoả mãn, và mong họ
khi đã tiếp nhận pháp thực nầy rồi, họ xả bỏ được tâm xan tham và sanh về Tịnh
độ. Cuối cùng sẽ đạt được địa vị Phật quả trong tương lai.
Đoạn nầy nói với những Phật tử tu hành không thành công
đang ở trong vòng đau khổ. Khi đã có duyên được làm người phật tử, tuy gặp Phật
pháp tăng, nhưng họ không gặp được duyên lành, không được hướng dẫn tu hành
đàng hoàng, học hiểu phật pháp đúng phương pháp. Không phải mỗi khi chúng ta
trở thành Phật tử là ta đã được thừa hưởng giáo lý của đức Thế Tôn đâu. Hay ta
sẽ được cái ân huệ từ Phật che chở cho ta mọi điều đâu? Nếu chúng ta quy y
rồi, thành người Phật tử mà không gặp
được minh sư, không gặp bạn hay, môi trường tốt, thì cái học Phật của ta không
thể thành công được. Chúng ta có thể học được một mớ khái niệm hay lý thuyết,
và những cái đó chúng ta không đem áp dụng vào cuộc đời được, nó giống như cái
bánh vẽ không làm no lòng người đang đói. Cho nên những khái niệm lý thuyết đó
đôi khi hổn tạp, không được thuần chất Phật giáo, mà nó bị pha trộn với những yếu tố mê tín dị
đoan. Và người dạy chúng ta có thể cũng không nắm bắt được tinh yếu của Phật
pháp, và không thành công trong việc tu tập. Cho nên dầu đã trở thành Phật tử
rồi mà ta vẫn chưa thành công trong sự tu tập. Không phải khi thành Phật tử là
tự nhiên có sự chuyển hoá và an lạc. Chúng ta cần phải có dịp may mắn mới gặp
được thầy hay bạn tốt, tăng thân vững vàng thì mới có thể thành công. Nếu không
thành công trên sự tu học dù là phật tử chúng ta vẫn đói khát như các giới khác
như thường.
Thức ăn tôi đang hiến cúng cho quý vị đây là những thức
ăn rất thanh tịnh, thức ăn không tạo sự đau khổ trong cơ thể và tâm hồn quý
vị. Thức ăn này được sự gia trì của Phật
của Pháp của Tăng, nên thức ăn dù có ít mà biến thành nhiều. Có bao nhiêu Phật
tử đến cũng đều được nhận đủ. Khi quý vị đã no đủ rồi, không cần phải tranh
nhau. Rồi quý vị sẽ xả bỏ được cái tật xan tham cố hửu lâu nay nó làm cho quý
vị khổ. Và quý vị sau khi tiếp nhận được
thức ăn này rồi quý vị sẽ được thảnh
thơi chơi miền Tịnh độ. Quý vị sẽ thoát khỏi cõi u minh tối tăm sanh về Tịnh độ. Khi đã thoát khỏi cõi khổ đau rồi quý vị nên
phát tâm Quy y Tam bảo và phát lòng Bồ Đề, rồi cuối cùng quý vị cũng sẽ đạt được
quả vị Vô thượng đạo. Quý vị muốn mau thoát ra khỏi cõi u minh vĩnh viển sanh
về Tịnh độ thì phải Quy y Tam Bảo,phải phát lòng Bồ đề, tức phải có cái nguyện
rộng lớn, phải ước ao được giải thoát và tự do. Ước mong giúp người, giúp đời
và phát tâm cầu sự tu học. Những điều đó làm phát sanh trong ta một nguồn năng
lượng rất lớn, cái đó gọi là tư niệm thực. Thức ăn và thức uống của chúng ta
dùng gọi là đoàn thực, thực phẩm về ý chí nguyện vọng gọi là tư niệm thực. Khi
cúng thí cô hồn, phật tử không những nhận lãnh thức ăn bằng đoàn thực mà cả tư
niệm thực nữa,là loại thức ăn rất thanh tịnh,
đó là Bồ Đề tâm. Có ba điều căn bản tạo nên năng lượng đó là quy y, sám
hối và phát Bồ đề tâm. Khi ba điều này phát nguyện rồi thì phải
nguyện xả bỏ những cố chấp xưa nay, chính những cái cố chấp đó, nó giam hảm quý
vị trong hoàn cảnh khổ đau và chật hẹp. Phát Bồ đề tâm là phát tâm rộng lớn.
Xưa nay chính vì cái tâm hẹp hòi, vị kỷ mà nó giam ta trong cảnh khổ đau và
chật hẹp. Nay muốn thoát khỏi cảnh đó thì phải phát tâm Bồ đề. Khi đã phát tâm
Bồ Đề rồi thì chắc chắn sớm muộn gì mọi người cũng sẽ chứng được đạo Vô Thượng
Chánh Giác.
Tất cả những công đức của sự cúng dường, sự ăn uống trong
chánh niệm, của sự quy y, của sự sám hối và của sự phát Bồ đề tâm đều sẽ đi về
cõi vị lai, không bao giờ mất đi như
những cái mà chúng ta thường chắt góp để dành cho tương lai. Tất cả Phật tử, tất
cả mọi loài (hữu tình). Tất cả cô hồn ngạ quỷ đã có mặt hôm nay trong buổi cúng
thí được tiếp nhận thức ăn, tiếp nhận giáo pháp được hướng dẫn quy y, sám hối
và phải phát Bồ đề tâm.
Người cúng thí có tâm niệm hướng dẫn chúng cô hồn được
như vậy,không những cô hồn được sự lợi ích rất lớn, cũng chính cô hồn được lợi
ích thoát khổ được vui, cho nên công đức của người cúng thí không phải nhỏ. Mỗi
lần chúng ta có tâm niệm cúng thí trọn vẹn như thế, nhờ đó tấm lòng mình mở
rộng, lúc đó hạt giống lành được gieo vào trong tâm ta càng ngày càng lớn mạnh.
Vì vậy cúng tụng thí thực đem lại nhiều phước và đức cho hành giả. Cúng thí
thực là việc thực tập ban rãi lòng từ bi mà cũng là tiếp nhận hạt giống từ bi
trong lòng được nuôi dưỡng lớn thêm. Có từ bi thì có tất cả, không có từ bi thì
sẽ không có gì hết.
Có một câu chuyện về việc cúng thí như sau.
Có hai người bán hàng tạp hoá cùng kề bên nhau, một người
chuyên cúng thí cô hồn, còn một người không tin có cô hồn và cũng không muốn
cúng thí chi cho nó phiền phức và tốn kém, cho nên không bao giờ chị ta quan
tâm. Người mà hay chuyên cúng thí cô hồn
thì hàng bán rất chạy, còn chị kia thì ngồi mà ít ai hỏi mua. Vì sao vậy? Vì
người hay cúng thí cô hồn,được cô hồn ủng hộ, cô hồn hay dẫn khách hàng đến để
mua hàng người mà hay ban bố cho họ, cho nên họ trả ơn bằng cách dẫn khách hàng
đến ; còn người kia không ơn nên không trả. Như vậy việc cúng thí không chỉ
dành riêng cho những vị xuất gia trong chùa, mà ở nhân gian ai cũng làm được,
ai muốn tạo phước cho gia đình mình thì nên thường hay cúng thí cô hồn, nhất là
nên cúng vào những ngày rằm mồng một, 30, 14 thì tiện. Mỗi khi cúng thí ta nên
nhớ đừng gây tội sát sanh, tức đừng cúng đồ mặn không tốt, vì thịt cá chỉ chiêu
cảm kêu gọi các loài quỷ hung dữ đến mà thôi, vả lại họ có ăn được họ cũng
không có lợi ích bằng ăn chay. Vì thịt cá không phải món ăn thanh tịnh làm cho
họ giải thoát hết khổ, mà ta cũng không mấy phước đức, cho nên cúng cô hồn chủ
yếu cháo trắng nước trong, cơm chay, chè xôi,hoa quả bánh trái là đủ.
Nhữ đẳng Phật tử chúng
Ngã kim thí nhữ cúng
Thử thực biến thập phương
Nhứt thiết Phật tử cộng
Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng giữ Phật tử,
Giai cộng thành Phật đạo.
# #
Này
các vị Phật tử,
Tôi
nay xin dâng cúng.
Thức
ăn biến khắp mười phương,
Tất cả
Phật tử đều tiếp nhận,
Nguyện
đem công đức nầy,
Hồi
hướng về khắp tất cả,
Phật
tử và chúng tôi,
Đều
cùng thành Phật đạo.
#
#
Chân ngôn thí vô gìa thực,
Án mục lực lăng ta bà ha.
Vô Già tức không ngăn cấm một ai, không bị bít lấp đường đi bất cứ mộ
ai. Vô già ở đây là sự bình đẳng, ai đến cũng được, không đòi hỏi điều kiện, có
đến thì có phần, không đòi hỏi phải có phiếu ăn mới được vào, phiếu tham dự như
người cõi trần.
Chân ngôn cúng dường.
Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt
nhật ra hồng.
Đây là biểu lộ sự bình đẳng trong khi thực hành bố
thí. Hiến tặng thì phải có tâm bình đẳng, không phân biệt người nầy kẻ nọ,
không nghĩ ta ưa người nầy thì bố thí, mà không thích người kia thì bỏ kệ, dù
người đó có khổ cũng mặc thây, cái đó không phải bình đẳng. Nghi thức được kết
thúc bằng một bài kệ :
Ngã kim phụng hiến cam lồ vị
Lượng đẳng Tu di vô qúa thượng,
Sắc hương mỹ vị biến thập phương
Duy nguyện (hương linh, cô hồn ) giai bảo mãn.
Nam Mô Mỹ Hương Trai Bồ Tát Ma ha Tát
Tôi nay phụng
hiến cam lồ vị
Phân lượng
nhiều như núi Tu di,
Mùi vị ngon thơm biến khắp miền,
Xin nguyện (hương linh,cô hồn
) đều no đủ.
Nam Mô Mỹ Hương
Trai Bồ Tát Ma Ha Tát .
Cam lồ là một thức ăn rất bổ dưỡng cho cơ thể, lẫn tinh
thần. Thực phẩm thế gian chỉ bổ dưỡng cho cơ thể, nhưng không nuôi dưỡng cho
tinh thần được về sự giải trừ phiền não. Cam lồ
vị là một thức ăn pháp thực, ai được ăn được uống rồi, người ấy thân
không đói, tâm không khổ, hết bịnh tật, xa rời cấu uế, từ bỏ nóng giận tham sân
si, từ bi trí tuệ phát triển. Cam lộ vị nầy gần như nước tám công đức của thế
giới Cực Lạc. Có khả năng làm cho chúng sanh đạt được ý nguyện, dứt khổ được
vui. Thần lực gia trì của Phật lực pháp lực rất lớn, khiến phân lượng gia trì
của vị cam lồ nhiều như thái hư, như núi Tu di.
Công năng diệu dụng của pháp thực nầy rất lớn, không thể
nghĩ bàn,cho nên trong những buổi trai đàn chẩn tế, người ta hay dành nhau xin
cơm,cháo, nhất là đồng tiền cúng thí hoặc chữ vải trên tấm phan cúng chẩn về để
đầu nằm, hoặc đeo trong thân cho con nít khó nuôi, thì sẽ được yên ổn, dễ nuôi
mau lớn và thông minh. Vì nó được sự gia trì của pháp lực.
Cái nầy gọi là “ Pháp lực bất tư nghì, từ bi vô chướng
ngại ”. Sức pháp không thể nghĩ bàn, từ bi không bị chướng ngại, việc nầy chỉ
dùng cho những người có đức tin đối với Phật pháp ngoài ra ai không có đức tin
thì không có tác dụng.
Trên đây là nghi thức cúng thí tại chùa, nhưng ở tại gia
Phật tử cư sĩ ai cũng có thể thực tập được,
với điều kiện phải thực tập trước, phải luyện cho có định và huệ để có
đủ năng lượng trong khi thực hành cúng thí. Nghi thức nầy có trong cuốn kinh
Nhật tụng, hoặc ở các nghi cúng thí trong nghi khoa cúng./.
# # #
Tài liệu
tham khảo, được dựa theo đề tài Biển khổ thuyền
đi cứu độ người ” của HT Nhất
Hạnh.
Phần nầy để bổ
sung cho tài liệu học của Hai Thời Công Phu đã soạn.
** **
Soạn và Vi tính xong
Ngày 10 tháng 10 năm Quí Mùi.
Ngày 03
tháng 11 năm 2003.
(khởi soạn từ ngày 19 tháng 9 năm Quí mùi ).
Sau
đây là phần phụ, các bài triệu thỉnh cô hồn trước khi cúng thí, tuỳ theo thời
gian và tâm nguyện, hoặc sở ý của mỗi người, chúng ta có thể chọn trong những
bài triệu thỉnh sau,trước khi vào nghi cúng thí rồi mới bắt đầu đọc Nam Mô Diện
Nhiên Bồ Tát, Mãnh Hoả Diệm Diệm chiếu thiết thành........
THÍ THỰC
CÔ HỒN
Tư
hửu Việt Nam Quốc, Quảng Nam Tỉnh,Tam kỳ thị, An sơn phường, đệ tứ khối
phố, Gia đường phụng Phật tu hương hiến cúng phúng kinh kỳ (siêu huý kỵ .....kỳ
an gia trạch .. ). tịnh thí thực cô hồn kỳ cầu âm siêu dương thái tập phước sự.
Tức nhật Quí Mùi niên, thập ngoạt sơ bát nhật, trai chủ : Nguyễn văn A hiệp toàn gia đẳng thành tâm cẩn dĩ hương
đăng trai bàn thứ phẩm chi nghi,
Ngưỡng
vọng Đại Giác Thế Tôn quan giáng đạo
tràng chứng minh công đức tiếp độ phụng
vì : Đông Tây Nam Bắc tứ duy thượng hạ nam nữ chủng tánh cô hồn, nội gia viên
trạch, ngoại gia viên cư, lai đáo đình tiền thính pháp văn kinh thọ cam lồ vị
siêu sanh tịnh độ, khuôn phò tín chủ toàn gia nam nữ, thân xu khương thái mạng
vị bình an, phổ nguyện pháp giới oan thân đồng triêm lợi lạc.
Nam mô chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát. # # #
Bài 1 :
Hôm
nay,phật tử ... tại ... ..
Sắm
sửa hương hoa phẩm vật, cúng thí Âm Hồn các Đảng, vất vưởng thê lương, không
nhà không cửa, không nơi nương tựa, đói khát thảm thương, hoặc nơi chiến trường
hoang dã, ngã gục tan thây, hoặc nơi thâm sơn cùng cốc, rắn độc gấu be, hoặc
nơi sông sâu biển rộng, cá sấu vây quanh, xé nát thân ra, từng manh miếng nhỏ,
tất cả oan hồn yểu tử, nay mời về núp bóng từ quang, dự đàn thí thực, nương nhờ
Phật lực, câu kinh tiếng kệ, sớm được siêu sinh tịnh độ. Ngưỡng mong oai đức cao dày từ bi gia hộ.
Án Thỉnh Cô Hồn.
Hởi
cô hồn trước sau tề tựu,
Nghe
lời khuyên để sửa lỗi mình,
Quan Âm Địa Tạng Oai linh,
Thích Ca Phật Tổ câu kinh giải nàn,
Hởi uổng tử hồn oan phưởng phất,
Noi tâm lành của Phật làm gương,
Ta Bà cực khổ
trăm đường,
Mau
tu thì được phật thương cứu liền,
Hởi
hương hồn chết chìm đáy biển,
Và
bao người ngộ độc bỏ thân ,
Nghe
chuông thức tỉnh dần dần,
Đừng
ham danh lợi phù trần nhiểu nhương,
Hởi
Cô hồn chết thiêu chết chém,
Hổ
giảo thân bị yểm bị trù,
Kíp tìm kinh kệ sớm tu,
Khỏi vòng xích sắt tội tù nghiệp oan,
Hởi
Hồn thác trong cơn binh lửa,
Chết
phong ba,chết giữa núi non,
Khi
nghe chuông giục boong boong ,
Hương
thơm toả khắp, hồn còn nghe kinh,
Hởi
hồn ở đầu gành mé biển,
Nương
gió mây, phảng phất lời xưa,
Hồn ơi hồn hởi tránh chừa,
Những lời gian ác dối lừa Phật tiên,
Các hồn bị gấu, beo,rắn cắn.
Cùng những hồn số vắn vô danh,
Hãy nghe kinh kệ ăn năn,
Rồi
đây hồn sẽ vô ngần thảnh thơi,
Hởi
những hồn vì lời dèm xiểm,
Đã
huỷ mình chết lụn căm gan,
Sớm
nghe kinh kệ lời vàng ,
Phật
liền dẫn lối chỉ đàng hồn tu,
Xin
hồn tỉnh hướng về Phật tổ,
Ngài
từ bi cứu độ vong linh
Bao
hồn sinh tử tử sinh,
Hôm
nay hồn được nghe kinh pháp mầu.
# #
Bài 2 :
Vốn người thập loại biết là đâu,
Hồn phách mơ màng trải mấy thu,
Cồn biển mênh mông bầu thế giới,
Nấm mồ vô chủ thấy mà đau,
Phổ triệu
thỉnh chân ngôn :
Nam
Mô Bộ Bộ Đế Rị Già Rị Đa Rị Đát Tha Đa Da
(3 lần ),
Nhất tâm triệu thỉnh :
Là những mênh mông bầu thế giới,
Thỉnh cô hồn mười loại hảy về đây,
Diện Nhiên sở thống một tay,
Hồn kia dịch lệ giống này trần sa,
Cô Hồn ơi !
Hoặc nương cây nương cỏ bóng ma,
Mường tượng lỵ mỵ vọng lượng quỷ danh,
Dầu người chẳng có họ tên,
Hoặc
trong thân thích hai bên họ hàng,
Gái trai già trẻ tráng cường,
Cô hồn ơi ! Hảy nên tin Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi,
Đàn thí thực vâng lời Phật dạy,
Của có chi bát cháo nén nhang,
Gọi
là manh áo thoi vàng,
Giúp
cho làm của đi đàng thăng thiên,
Ai đã đến dưới trên ngồi lại,
Của trai đàn bánh trái chè xôi,
Pháp linh biến thực biến thuỷ,
Của ít thành nhiều,
Trên nhờ Tôn giả chia đều chúng sanh,
Phật hửu tính từ bi phổ độ,
Chớ ngại rằng có có không không,
Nam Mô Phật,Nam Mô Pháp,Nam Mô Tăng,
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới,
Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật,
Tiếp dẫn cô hồn vãng sanh Tịnh độ.
Nam Mô Siêu Lạc Độ Bồ Tát.
ơi hởi chư linh !
Biển khổ mênh mông ,quày đầu thấy bến,
Trót sanh được kiếp làm người,
Không sớm đạt phần giác ngộ,
Vì một phút nóng giận ,
Nên trôi lạc mãi nẻo tà,
Tử tử sanh sanh chưa ai thoát khỏi,
Vòng luân hồi nhân quả chuyển xoay,
Vẩn
biết nhân thân là giả tạm,
Nhưng
khi bỏ nó rồi thì khó chổ tựa nương,
Chư
linh xưa,thuở còn thân giả tạm,
Thì
liệt liệt oanh oanh,
Đấng
nam tử mày râu tròn nợ nước,
Dũng
cảm hiểm nguy lằn tên mũi đạn,
Chí
kẻ sĩ đã dày dạn núi sông,
Lại
có kẻ chịu tù ngục cùm gông,
Hoặc
có người vì non sông tổ quốc,
Nào
quản ngại rừng sâu nước độc,
Lại có người tên đạn vương mang,
Oan hồn ơi ! Ly biệt dặm ngàn !
Chết sông,chết biển,chết suối ức oan,
Hồn phưởng phất lang thang đói rét,
Hoặc điện giật,xe tung, sấm sét,
Phận
thai nhi non tháng thiếu ngày,
Và
thai mẩu khó sanh đành vong mạng,
Rắn
độc hại,cọp tha nào thấy dạng?
Chết
thảm khốc hồn oan quạnh quẻ,
Giữa
trùng dương thuyền chìm sâu đáy bể,
Chồng
vợ cháu con tìm đâu kể lể,
Chết
nghiện ngập hồn ai cúng tế?
Hoặc thất tình tìm kế quyên sinh,
Kẻ
thất chí,danh lợi không thành,
Chết
oan mạng mượn liều thuốc độc,
Hoặc
nợ nần,hoặc thảm khốc trái oan,
Bả danh lợi tử án phải vương mang,
Bốn biển anh em sao nở tương tàn tương sát?
Do
độc,tham,sân,si,nghi,mạn gây nên,
Tình
thương thì bỏ,oán hận thì quên,
Nên
nhiều kiếp chịu thọ tên ma quỷ,
Chư
linh ơi ! Hảy nhập tâm hai câu chân lý,
Quên
câu : “Ân đền, oán trả ”,
Nhớ
câu : “ Oán trả bằng ân ”,
Lời
văn tế đã tỏ phân trần tóm gọn,
Gói
trọn tình nghĩa sắc son,
Triệu
triệu thỉnh chư linh thức tỉnh lai hoàn,
Ngộ
tự tánh nhập đàn thính pháp,
Liễu
nghĩa kinh,thọ hưởng hương hoa,
Nhận
bạc tiền,thực phẩm bánh quà,
Thọ
đầy đủ,nương lễ đàn siêu thoát,
Nhập
tràng phan theo gió lửa siêu thăng,
Nghe pháp sư giảng pháp giải kinh văn,
Liễu từng nghĩa từng câu lìa ma kiếp,
Linh
ơi ! Hởi chư linh !
Khi
còn sống thì rất khôn ngoan,
Nay
lìa xác phải luôn luôn thức tỉnh,
Nghe
lời văn tế gấp gấp nhập đàn tràng,
Trượng
thừa Tam bảo lực,
Chư tăng bảo uy nghiêm,
Và
đạo tràng sáng rực,
Mười
phương chư Phật toả ánh hào quang,
Bồ Tát Quan Âm Thế Chí,
Hiển hiện nơi đạo tràng,
Phóng
quang tiếp độ chư linh,
Chư
linh cấp cấp ngộ,cấp cấp ngộ,
# #
Nhất tâm triệu thỉnh :
Pháp giới lục đạo thập loại cô hồn,
Diện Nhiên Sở Thống Thích Lịch đa chúng trần sa,
Chủng
loại y thảo phụ mộc,lỵ mỵ vọng lượng,
Trệ
phách cô hồn,tự tha tiên vong,
Gia
thân quyến thuộc,nhứt thiết đẳng chúng,
Duy
nguyện thừa Tam bảo lực,
Trượng
bí mật ngôn,thử nhật kim thời ,
Lai
thọ vô giá cam lồ pháp thực.
Từng nghe Phật tổ dạy A Nan,
Cứu
khổ độ mê cõi giang san,
Thuỷ
lục ê chề,nổi hồn phách tử vong ngao ngán,
Trên
đến bậc vương hầu tể tướng,
Dưới
đến người sĩ,nông,công,thương ở đời,
Cô
hồn ơi !
Nào
là kẻ tôn,nào kẻ ty nào là Nam,nào là Nữ,
Hoặc
có kẻ buộc mình trong lịnh ngữ,
Hoặc
có người sẩy bước trong chốn sa trường,
Hoặc
là sa hầm sụp hố,trúng than trúng thuốc,
Bom
rơi đạn nổ, cổ treo dây buộc,
Sản
nạn huyết bồn, xà thương hổ giảo,
Hoặc
mắc binh ôn, hoặc xuông búa sấm,
Phép
vua giảo trảm,hoặc chém bắn tử hình,
Bực
mình trù ẻo vong thân,
Những
loài ấy nhiều nhiều đã quá chừng,
Lời
muốn kể, kể sao cho xiết,
Cô hồn ơi ! Kìa nương dựa mã mồ đã mất biệt,
Nào từ đường chổ chổ có chi chi,
Bơ vơ bãi cát dưới gốc cây,lạc loài đầu gành mé biển,
Khổ
nổi nắng mưa xao xuyến,
Biết
mấy thu lạnh nóng đổi thay,
Trong
bốn mùa chẳng có người quảy lạc tế chay,
Mản
tám tiết vắng người đơm quảy,
Rầu
rầu rỉ rỉ cõi u minh,
Biết
mấy xuân thu mịt mịt mờ mờ,
Đường
xuất luỵ mản trong ngày tháng
Hôm
nay là ngày ......... . ...,
Trai
chủ :
..... .. ..... ,
Sắm
sửa hương hoa trà quả, bánh cháo chè xôi,
Thỉnh
mời chư vị, tiên linh,hương linh,âm linh,
Cô
hồn đẳng chúng, Về đây trước là thính pháp văn kinh,
Sau
là thọ hưởng cam lồ pháp vị siêu sanh Tịnh độ,
Rồi
trở lại ủng hộ cho đồng bào cho quê hương xứ sở,
Cho
đạo pháp trường tồn,cho chúng sanh an lạc,
Chư
linh ơi ! Ngôi liên đài quanh quẩn,
Miền
Tịnh độ rỏ bày trước mắt,
Búng
ngón tay chẳng phiền nhọc sức,
Đã
chứng vào trong cõi vô sanh,
Cô
hồn ơi ! xin mời cùng khắp chốn u minh,
Nhờ
Đức Quan Thế Âm chống thuyền tế độ,
Ngưỡng
lao đại chúng đồng âm trì tụng :
Nam
Mô Diện Nhiên Vương Bồ Tát,
Nhược
nhơn dục liễu tri,
Tam
thế nhất thiết Phật,
Ưng quán pháp giới tánh,
Nhứt thiết duy tâm tạo
..... .
# #
Vốn người thập loại biết là đâu,
Hồn phách mơ màng trải mấy thu,
Cồn biển mênh mông bầu thế giới,
Nấm mồ vô chủ thấy mà đau,
Phổ triệu
thỉnh chân ngôn :
Nam
Mô Bộ Bộ Đế Rị Già Rị Đa Rị Đát Tha Đa Da
(3 lần ),
Nam mô Phật Nam mô Pháp Nam mô Tăng.......
Hôm
nay là ngày ......... . ...,
Trai
chủ :
..... .. ..... ,
Sắm
sửa hương hoa trà quả, bánh cháo chè xôi,
Thỉnh
mời chư vị, tiên linh,hương linh,âm linh,
Cô
hồn đẳng chúng, Về đây trước là thính pháp văn kinh,
Sau
là thọ hưởng cam lồ pháp vị siêu sanh Tịnh độ,
Rồi
trở lại ủng hộ cho đồng bào cho quê hương xứ sở,
Cho
đạo pháp trường tồn,cho chúng sanh an lạc,
Chư
linh ơi ! Ngôi liên đài quanh quẩn,
Miền
Tịnh độ rỏ bày trước mắt,
Búng
ngón tay chẳng phiền nhọc sức,
Đã
chứng vào trong cõi vô sanh,
Cô
hồn ơi ! xin mời cùng khắp chốn u minh,
Nhờ
Đức Quan Thế Âm chống thuyền tế độ,
Ngưỡng
lao đại chúng đồng âm trì tụng :
Nhất
tâm triệu thỉnh :
Pháp
giới lục đạo thập loại cô hồn,
Diện
Nhiên Sở Thống Thích Lịch đa chúng trần sa,
Chủng
loại y thảo phụ mộc,lỵ mỵ vọng lượng,
Trệ
phách cô hồn,tự tha tiên vong,
Gia
thân quyến thuộc,nhứt thiết đẳng chúng,
Duy
nguyện thừa Tam bảo lực,
Trượng
bí mật ngôn,thử nhật kim thời ,
Lai
thọ vô giá cam lồ pháp thực.
Từng nghe Phật tổ dạy A Nan
Nam Mô Diện Nhiên Vương Bồ Tát,
Nhược nhơn dục liễu tri,
Tam thế nhất thiết Phật,
Ưng quán pháp giới tánh,Nhứt thiết duy tâm tạo ..... .
#
THỈNH CÔ HỒN
Nhất tâm phụng thỉnh :
Thập phương pháp giới lục đạo chúng sanh,
Tam thập lục loại cô hồn đồng lai toạ vị (1 lạy ).
Nhất tâm phụng thỉnh :
Tiêu Diện Đại Sĩ, Diệm Khẩu Quỷ Vương,Sở thống lảnh giả
chuẩn giáo Cô Hồn, Thập loại cô hồn,lục loại cô hồn,thiên bách thần linh thần
tướng,chúa tướng âm hồn nghe lời triệu thỉnh,cẩn đáo đàn tràng lai lâm chứng
giám,tín chủ kiền thành tác lễ.
Bài 3: TẾ CÔ HỒN
Thấy thiên hạ kêu van khốn khổ,
Tấm
lòng thương hết chổ thở than,
Thương
những người vô tội chết oan,
Thương
những kẻ vô can mà chịu hoạ,
Thương
những người chết mất mồ mất mả.,
Vì
giang sơn mà tan rã hình hài,
Thương
những người đầu gối quá tai,
Bỏ sự nghiệp mà lạc loại nơi khách lữ,
Thương
những kẻ quần thao phụ nữ,
Nát
hình hài cho trọn chữ trung trinh,
Thương
những người ấu trỉ sơ sinh,
Mà
phải bị quăng mình vào lửa đỏ,
Thương
những người bần cùng khốn khổ
Biết
lấy chi cho có vệ sinh,
Thương
những người hiểu nghĩa đệ huynh,
Mà
phải bị luỵ mình nơi chiến địa,
Thương
những người một đời nhân nghĩa,
Bị dèm pha mà sa sỉa hầm sâu,
Thương
vì ai mà huỷ phá đường cầu,
Mà phải chịu bêu đầu bên đại lộ,
Thấy oan trái cuộc đời quá khổ,
Tấm lòng thương siêu độ một bài,
Mong nhờ trên Phật tổ Như Lai,
Xin tiếp dẫn liên đài tịnh vức,
Nam Mô A Di Đà Phật.
Thương những kẻ anh hùng nghĩa sĩ,
Oan uổng này trời đất có hay,
Theo ngọn cờ ngậm huyết đền ơn,
Trả nợ nước,giang sơn bỏ
cửa nhà cũng bỏ,
Thấm thoát sương đeo ngọn cỏ,phách hoá dòng sông,
Anh em không,cha mẹ cũng không,
Bạn với cành sung cùng là bóng quế,
Khi khô khát nắng che mưa đậy,
Nóng hoả lò trời đất khó than van,
Trời làm màng đất làm chiếu,
Quản bao sùng đục lổ kiến xoi hang,
Chim kêu vượn hú vẻ vang,
Sao chẳng thấy ông thiền tăng làm bài kệ,
Nam Mô A Di Đà Phật,
Sống lúc nhúc trong vòng tạo hoá,
Kẻ tham phú quý người trọng công danh,
Thát hoả lò ở chốn chiến tranh,
Phách phiêu diêu chiêu hồn lạc mộ, Nam Mô A Di Đà Phật
Kẻ sa sông sa suối người gấp cội gấp cành,
Kẻ hùm tha rắn cắn,người lại mắc nan thương yểu tử,
Kẻ treo cành thắt cổ,người xoi lổ đục hang,
Kẻ nằm đàng chết đói,kẻ thát non thát núi,
Kẻ thát suối thát sông,kẻ thát tây thát đông,
Kẻ thác nam người thát bắc,
Bóng trăng vằn vặt,ngọn gió hiu hiu,
Phách tán hồn xiêu những mồ vô chủ.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Kẻ mang thuốc độc người thát khi không,
Kẻ bị đao người bị đáo,kẻ bị tên người bị đạn,
Kẻ mang thuỷ nạn người mắc hoả tai,
Một ngọn hương không biết cậy nhờ ai?
Nhờ pháp Phật nữa câu kinh bạt độ.
Nam Mô A Di Đà Phật.
* *
*
Bài 4: THỈNH CÔ HỒN
Nhất tâm phụng thỉnh :
Thập
phương pháp giới lục đạo chúng sanh,
Tam thập lục loại cô hồn đồng lai toạ vị (1 lạy ).
Nhất tâm phụng thỉnh :
Tiêu Diện Đại Sĩ, Diệm Khẩu Quỷ Vương,Sở thống lảnh giả
chuẩn giáo Cô Hồn, Thập loại cô hồn,lục loại cô hồn,thiên bách thần linh thần
tướng,chúa tướng âm hồn nghe lời triệu thỉnh,cẩn đáo đàn tràng lai lâm chứng
giám,tín chủ kiền thành tác lễ.
Hởi các chiến sĩ đao binh tử trận,
Cũng có người thất lạc chết oan,
Lại có kẻ sa cơ thất thế,
Bị quân thù sát hại phân thây,
Hồn hảy còn phảng phất đâu đây,
Không mồ không nấm không ai phụng thờ,
Kẻ thì thác dưới dòng sông cửa biển,
Người chết nơi biển ven rừng,
Cũng có người liệt nữ trung trinh,
Gặp cường bạo phải liều mình tự tử,
Lại có người tự tử đốt lấy thân,
Cô hồn ơi ! hởi cô hồn
!
Nay hồn ẩn bóng cây,hay hồn đang
theo mây theo gió?
Hồn dật dờ đàng cái ngã ba ,
Hồn ơi ! trai gái trẻ già,
Đương ở bên đường trần ai,
Có nghe tiếng thỉnh mời,
Thiên vạn vạn các đảng cô hồn,
Mau về thọ hưởng,
Cô hồn ơi ! cô hồn,
Cũng có người không nơi nương tựa,
Lại thêm phần đói khổ triền miên,
Cũng có kẻ thảm vong kêu khóc,
Chốn dương trần không chổ gởi thân,
Xét cho người tuyệt tự vô thân,
Bờ sông góc chợ như gần như xa,
Xét cho người không mẹ không cha,
Cỏ xanh cây chiếu lá đa chăn cùng,
Quảy đơm hương khói lạnh lùng ,
Mộ phần ngọn cỏ như cùng bỏ hoang,
Có người nghĩa khí trung oan,
Cội cây bụi cỏ trường gian liều mình,
Hồn phiêu phách lạc linh đinh,
Mây thu lạnh lẻo một mình ngẩn ngơ,
Hồn ơi thất thiểu bơ ơ,
Mây che ngày nắng có nhờ đêm sương,
Hồn ơi ! hồn có vấn vương,
Nghe lời triệu thỉnh băng đường
đến ngay,
Cô hồn ơi ! hởi cô hồn !
Xót thương những kẻ cơ hàn,
Một manh chiếu rách nằm ngang bên đường,
Lòng thì đi khắp tứ phương,
Đến khi thác xuống biết nương nơi nào?
Hồn ơi ! hồn ở nơi nào?
Hay hồn phản phất hàng rào bụi tre,
Hay hồn theo gió theo mây,
May về thọ hưởng nơi đây mong chờ,
Hương hồn các đảng bơ vơ,
Nương theo cành lá phất phơ là đà,
Khát khao không biết quê nhà,
Sớm buâng khuân nhớ,chiều tà trông,
Lại mời các đảng ấu đồng,
Bên đường thất thiểu phập phồng
khóc than,
Vì tình mà phải thác oan,
Không ai đơm quảy hương vàng,
Không mồ không nấm lang thang một
mình,
Hồn tuy còn nhỏ anh linh,
Nghe lời kể lể phân minh rỏ ràng,
Khá may nhập đáo đàn tràng,
Về đây thọ hưởng hương vàng lể nghi,
Cô hồn ơi ! Hởi cô hồn !
Cũng có người sút sảo tảo thương,
Hồn xao phách lạc biết nương nơi nào,
Hương hồn còn ở cây cao,
Nương theo bóng mát dựa vào bụi cây,
Cũng có người chết chẳng toàn thây,
Hồn đi phản phất đêm ngày bơ vơ,
Chẳng có nơi nương tựa mà chờ,
Hồn còn đói khát như chờ ngọn hương,
Hay hồn thất lạc hà phương,
Cây cao bóng mát hồn vương nơi nào,
Cũng có người chết tận núi cao ,
Kẻ chết sông,người chết suối biết
bao lạnh lùng,
Cô hồn ơi ! hởi cô hồn,
Lại có người hùm bấu cọp tha,
Thân thể ấy còn đâu chôn cất?
Chốn dương gian hồn đi phưởng phất
,
Nơi núi rừng ẩn núp bóng cây,
Không mồ không mả không thây,
Không nơi nương tựa đêm ngày khóc
than,
Hồn ơi phản phất bên đàng,
Sớm nương bóng quế chiều sang cội
tùng
Lại có người tai nạn lưu thông,
Vô tình xe cộ va tông chết liền,
Bể đầu đổ ruột ngả nghiêng,
Máu ra lai láng hồn thiêng dật dờ,
Cũng có người giận vợ ngẩn ngơ ,
Liều mình tự tử trên bờ dưới sông,
Cũng có người oan ức vì chồng,
Tình duyên trắc trở đành lòng thác oan,
Bỏ con thơ cha mẹ ngở ngàng,
Hồn xiu phách lạc bên đường bụi cây,
Hồn ơi hồn ở đâu đây?
Nghe lời triệu thỉnh chốn này liền
đi,
Cô hồn ơi ! hởi cô hồn,
Cũng có kẻ chết dầm mình dưới biển
thi thể cá xơi,
Cũng có kẻ chết trên nguồn thân
thây khó kiếm
Hồn ơi ! hồn có chơi vơi !
Hồn đi ngang ngữa khắp nơi dật dờ,
Xiêu mồ lạc nấm bơ vơ,
Hồn còn phản phất biết nhờ nơi đâu
,
Nghe lời triệu thỉnh mấy câu,
Khá mau đến xứ ngỏ hầu lảnh lương,
Cô hồn ơi ! hởi cô hồn !
Cũng có người chết bắn chết đâm,
Trong cơn biến loạn chiến tranh tan
tành,
Cũng có kẻ non gan chết ngất,
Bởi đạn bom dồn dập bên tai,
Cũng có người chết một thành hai,
Bụng mang dạ chữa có thai trong mình,
Cũng có người chết cả gia đình,
Dưới hầm trú ẩn bị mìn bị bom,
Chết rồi thi thể ngổn ngang,
Hồn theo khói lửa thênh thang giữa trời
Bảo to lụt lớn nước thời dẫn đi,
Hồn đang kêu khóc ai bi,
Theo dòng nước bạc mấy khi lạnh lùng,
Hay hồn lai vãng tây đông,
Phất phơ ngọn cỏ đau lòng khóc than,
Đã đành hồn bị thác oan
Thẩn thơ trên núi dưới ngàn chơi vơi
Đầu đình xó chợ khắp nơi,
Hồn đi phản phất biết hồn về đâu,
Bóng trăng man mác trên đầu
Gió hiu hiu thổi hồn đâu trở về,
Dương gian âm phủ dựa kề,
Khói hương nghi ngút hồn về chứng minh ,
Oan khiên chưa trả thiên đình,
Nợ trần còn nặng mối tình còn đeo,
Biết đâu chìm nổi như bèo,
Lênh đênh mặt nước hồn theo mây mờ,
Sống còn nghiệp chướng trơ trơ,
Chết đi oan uổng biết nhờ cậy ai,
Mưa phùn gió bất mây bay,
Chim kêu vượn hú trông ngày trông đêm,
Trông cho hồn thoát siêu lên,
Âm dương lưỡng bộ hai bên hiệp hoà,
Nước xanh sóng lượn ngà ngà,
Phất phơ ngọn khói hương trà nơi đây,
Hồn ơi lắng nghe tiếng thỉnh mời,
Mấy lời triệu thỉnh về đây nhập đàn,
Xin mời các đảng thác oan,
Ma hời ma mọi,trăm ngàn ma vương,
Ma chăm ma chợ lạc đường,
Chủ ngung ma rợ vấn vương ma hời,
Có người chết cô quả mồ côi,
Không ai hương khói,không người
quảy đơm,
Có người chết yểu chết oan,
Té cây té giếng hồn còn ẩn quanh,
Có người tự vận quyên sinh,
Chết sông chết suối hiện hình ra
ma,
Bóng cây là cửa là nhà,
Lá xanh che đậy
sương sa phủ đầy,
Hồn ơi hồn dựa vào đâu?
Đêm khuya gió tạt trên đầu trăng
thanh
Có người có vị vô danh,
Lại có kẻ vô danh vô vị,
Cô hồn ơi ! hởi cô hồn,
Đến thọ hưởng lòng thành gia chủ,
Đã sắm sanh tài y đầy đủ,
Hưởng lộc cùng lể
vật chi nghi,
Nghe lời phân cạn một khi,
Xin phò hộ gia chủ hưng thạnh,
Lảnh lương khô gạo muối ngọc trời,
Nhờ làm phép một hột biến thành ngàn hột,
Khá đem về giữ lấy mà dùng,
Bảo hộ toàn gia chủ an ninh,
Mong quý vị vui lòng hoan hỷ,
Hởi các đảng cô hồn đồng thọ hưởng,
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật,
Nam Mô Đai Bi Quan Thế Âm Bồ Tát,
Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ
Tát,
Nam Mô Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả,
Quan gián đạo tràng chứng minh
tiếp độ’
Triệu thỉnh cô hồn
Nhứt tâm triệu thỉnh pháp giới lục
đạo,tam thập lục độ cửu u thập nhị loại cô hồn,hà sa ngạ quỷ đẳng chúng. Duy
nguyện thừa Tam Bảo lực trượng bí mật ngôn,thử nhật kim thời lai thọ vô giá cam
lồ pháp thực.
Hương hoa thỉnh hương hoa thỉnh ..... . .
Bài 5: VĂN TẾ CHIẾN SĨ TRẬN VONG, LƯƠNG DÂN TỬ NẠN.
“ Gẫm
(Duy ) : Hôm nay ngày...tháng ... năm .. .ngày tốt giờ lành,nước
Việt Nam,tỉnh...quận...xã...Ban (Hội )...Tế chủ....tập họp toàn Ban (Hội ) tân
cựu,viên quan thân sĩ,binh dinh nhơn điền cùng cả thảy nhơn dân nam nữ lớn
nhỏ,đồng tâm thành kính hoà hợp nơi đây. Trộm nghĩ rằng : Sống được yên vui, ở
được bình ổn,cơm no áo ấm,thạnh vượng mạnh lành, nhờ sự hy sinh của các đấng
anh linh đã xã thân che chở. Hôm nay, tạm dùng trà nến, quả thực, hương trai,
gọi là đền đáp ơn cao nghĩa cả, để tỏ chút lòng mến tiếc kính yêu.
Kính
dâng lên :
-
Liệt vị tướng sĩ tôn linh vị tiền .
-
Liệt vị nghĩa sĩ tôn linh vị tiền.
-
Liệt vị lương dân chiến nạn tôn linh vị tiền.
Ngửa
mong liệt vị tôn linh cảm thông chứng giám.
Cúi
gẩm kính thưa,
Than
ôi ! Nghĩ rằng :
Hoạ
binh tiễn tràn lan cùng đất Việt,
Nạn
chiến tranh khốc liệt khắp trời Nam.
Nguyện
hy sinh để giữ nước,đánh đuổi giặc ngoại xâm,
Thề
quyết tử để cứu dân,dẹp trừ quân thiết huyết.
Nhớ
các đấng tôn linh xưa :
Hoài
chí cả,người trai đất Việt,noi mẩu gương tổ phụ truyền thống anh hùng. Trương
nghĩa cao, con cháu Tiên Rồng, nêu khí tiết Lạc Hồng giống nòi hào kiệt.Bầu máu
nóng, khối gan liền,nhắm nơi tiền tuyến, một ra đi chẳng hẹn ngày về. Niềm thân
yêu xứ sở quê hương, cha mẹ vợ con đành gác lại. Tổ quốc là trên hết, đem xương
máu đắp xây nền độc lập, nước hùng cường dân tộc tự do. Cho toàn dân áo ấm cơm
no, cho Tổ quốc vững bền văn hiến.
Chết
là chết,chết không đáng tiếc, chí anh hùng khinh sống chết nhẹ bổng như lông
hồng.
Lửa
cứu dân đã trui luyện khối xương sắt mình đồng,người chiến sĩ vượt hẳn ngoài
vòng sống chết.
Rồi
trối kê đạn bay gào thét,mặc đối phương hò hét cả đất trời.
Cũng
không màng máu đổ đầu rơi,mặc xác ngã thây phơi đầy núi biển.
Vẫn
quyết tiến,một thề tử chiến,càng hăng say xông lướt giữa sa tràng.
Nơi
chiến trường dầu phải sa cơ,đành ngã gục không hề khuất tiết.
Ngoài
trận địa lâm vào núng thế,cam luỵ mình chẳng khứng quy hàng.
Ôi
! còn vinh quang mất cũng vinh quang,sống oanh liệt chết càng oanh liệt.
Trung
kiên khí tiết,dân tộc anh hùng,
Tổ
quốc ghi công,nhơn dân kính mến.
Chết
vì nước,đời anh hùng đã viết,lưu niệm ngàn năm chói lọi nét sử vàng.
Chết
vì dân, người chiến sĩ hiên ngang,sống mãi mãi muôn đời,nêu cao gương trung
liệt.
Nơi
đây,vòng hoa đèn nến,tố phẩm hương trai,trước đàn tràng thiết tỏ chút lòng nhớ
nghĩa ghi ơn.
Bát
nước tâm hương,dĩa rau tô lạc,dưới án kính dâng,gọi truy niệm ba tuần tế điện.
Ngưỡng
mong liệt vị tôn linh cảm thông chứng kiến,
Hởi ôi ! Kính thay !
Cầu xin giám nạp.
Xướng : Tế chủ khởi thân lễ tứ bái – Bình thân quỳ.
Dẫn :
Than ôi ! Biển đạn rừng gươm,vùng khói lửa mịt mờ trời đất,ác tà thỏ lặn,cảnh
đau thương tan tóc,giọng đổ quyên thê thảm đẫm lệ hồng . Xướng : Điểm trà,khởi thân lễ tứ bái – Bình thân
quỳ.
Tụng : Giảo hữu biến thực biến thuỷ chơn ngôn,cẩn
đương trì tụng : Nam mô tát phạ...Nam mô tô rô...án,nga nga nẵng....
(hoặc
tụng Mông Sơn ) ..........
CÚNG CÔ HỒN
Chuyên Thân triệu thỉnh,cung vọng lai
lâm,ư kim ….niên…nguyệt…..nhật…..Tấu vị việt nam quốc …tỉnh…huyện(thị) …..xã
(phường)….xứ, cư đường ( kiến đàn ) phụng phật,tu hương phúng kinh kỳ an (kỳ
siêu …..)
dĩ hoàn long tịnh thí thực âm linh cô
hồn nhất diên, nguyện cầu âm siêu dương thái, bảo an gia trạch sự. Kim vị tín
chủ ….. thiết dĩ hương hoa trai bàn thứ
phẩm chi nghi, trượng tăng cẩn đương triệu thỉnh.
Hương hoa thỉnh ……
Nhất tâm phụng thỉnh, Nam mô Tây
Phương Giáo Chủ Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
NamMô Đại Thế Chí Bồ Tát, Nam Mô U Minh Lộ Thượng Tiếp Dẫn Cô Hồn Đại Thánh Đại
Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, NamMô Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả, Nam Mô ốc Tiêu
Sơn Hạ Diện Diên Đại Sĩ Diệm Khẩu Quỷ Vương, Tả Ngưu Đầu, Hữu Mã Diện, nhị vị
đại tướng quân thống lãnh cô hồn, lân mẫn hữu tình, quang giáng đạo tràng chứng
minh công đức.
Hương hoa thỉnh………..
Nhất tâm triệu thỉnh, phổ vị pháp
giới tứ sanh lục đạo tam thập lục bộ, thập nhị loại cô hồn. Diện Diên sở thống
bệ lệ đa chúng trần sa phẩm loại, y thảo phu mộc ly mỵ vọng lượng, trệ phách cô
hồn. Tự tha tiên vong gia thân quyến thuộc, viễn cập tha phương, cận ư đương
cảnh, oan hồn uổn tử, nam nữ thương vong. Tướng soái du hồn, trận sĩ chiến
vong, khất thương cái giả,, hình lục tù nhơn, thị tỉnh giang hồ, lộ đồ táng
mạng.Quân dân sĩ tốt, phủ huyện đồn dinh, hoặ bị đao thương hoặc tao cơ tế,
hoặc xà thương nhi thất mạng hoặc hổ
giảo dĩ tán thân thương vong hoạnh tử chi lưu cơ khát trầm nịch cô hồn chi
chúng.
Phục vị,thượng tự vương hầu khanh
tướng, hạ chí sĩ nông công thương, tôn ty nam nữ, hoặ u tù lĩnh ngộ hoặc bộ hãm
sa trường, hoặc nịch hà đoạn trảm, trúng than trúng dược, tự vẫn tự ải, sản nạn
chung thân, ôn hoàn yểu thệ hoặc thiên lôi chấn kích, vương pháp gia hình chú
trớ vong thân, như tư đẳng loại, hà sa vô tự âm linh cô hồn đẳng chúng
Phục vị, tam tế tiền khiên, oan gia
trái chủ, cừu thù chấp đối ; huyết sảo tảo vong,sa lạc bất tường, hữu danh vô
vị hữu vị vô danh, ly hương biệt quán mộ phần thất tích đẳng đẳng thần chánh
liệt vị chư âm linh
Phục vị Việt Nam, kỷ thứ chiến tranh,
chiến sĩ trận vong, nhân dân nạn vong, thiên tai biến cố đồng bào tử nạn, nhất
thiết thọ nghiệp, đẳng đẳng oan hồn chi chúng
Phục vị, miền u cảnh lạnh lùng thẳm
tối, chốn huỳnh tuyền nhiều nỗi nhọc nhằn, ẩn dạ đài đợi, nhất kiếp căn cõi
tịnh độ siêu thăng chưa được.
Thống Niệm, tội lỗi gây kiếp trước,
cho nên phải mang phiền não dập dồn, chịu thống khổ phách hồn phiêu lạc. cầu
chư Phật oai thần tế bạt, về cực lạc siêu thoát trần ai. Nay trai chủ đạm bạc
kính bày, xin mời chư vị tề lai thọ hưởng.
Giúp lê thứ quốc gia thịnh vượng, hộ
đạo tràng tăng trưởng cơ duyên, độ mười phương chúng sanh bình yên, cùng
gia chủ khương ninh hạnh phúc.
Kính Phục, Phụng Vị tứ sanh lục đạo
thập nhị loại cô hồn lai đáo đàn tràng thính pháp văn kinh, thọ cam lồ pháp vị
Lai
thọ vô giá cam lồ pháp vị. Lai thọ vô
giá cam lồ pháp vị.
* *
*
Vi
tính xong ngày 15 tháng 10 năm Quý mùi
(8 tháng 11 năm 2003 )
0 nhận xét:
Đăng nhận xét