Tu theo pháp môn Tịnh độ mà tu, chỉ có hai phần
chánh hạnh và trợ hạnh. Chánh hạnh là công năng căn bản, chỉ niệm sáu chữ Hồng
danh, Nam mô A Di Đà Phật, ai cũng biết cũng niệm được, nhưng ý nghĩa thì chưa
rõ, gồm có mấy ý nghĩa cơ bản như sau:
1- Một câu Nam mô A Di Đà Phật là Pháp giới tàng thân, bao gồm tất cả chư
phật trong mười phương ba đời.
2- Một câu Nam mô A Di Đà Phật bao gồm tất cả pháp, ba tạng và mươi hai bộ
kinh.
3- Sáu chữ Hồng danh là vua trong các câu thần chú, Sáu chữ Nam mô A Di Đà
Phật là bí mật không phiên dịch hết được, pháp này cao cả hơn trì bất cứ lời
chú nào
4- Học Phật nên tu định. Nhất tâm không loạn là Định, niệm Phật được nhất
tâm là thành công, đó là mục đích của pháp môn niệm Phật.
Tâm và Phật
vốn không hai, vì tất cả chúng sanh và chư Phật đồng một thể tánh. Chúng sanh
do vì vô minh che lấp nên Phật tánh không hiển bày, nay đem tâm niệm phật, dùng
câu danh hiệu Phật đột phá vô minh, chính là để hiển bày bản tánh của ta. “Mười
phương chư Phật ba đời đồng một pháp thân”. Pháp thân của Phật Thích Ca, Phật A
Di Đà và pháp thân của chúng ta là một chẳng phải hai. Niệm Phật là khai mở
hiển bày bản tánh là công phu chính. (Tất cả mặt trăng hiện ở các sông, ao, hồ
đều cùng chung một mặt trăng) cũng vậy, tất cả pháp thân đều cùng một pháp thân.
Tâm tánh của chúng ta bị vô minh che lấp nên không thể hiểu rõ được vô minh. Vô
minh là gì? Chính là các việc sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, tham lam,
nóng giận, si mê mà hằng ngày chúng ta thường làm mà không biết. Tu là từ bỏ vô
minh này, chẳng gây tạo nghiệp sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, tham lam,
nóng giận, si mê là làm cho bản tánh của chúng ta trở nên sáng suốt an
tịnh đó là tu.
Việc xấu
đừng làm, tìm việc lành để làm. Làm lành bỏ dữ, giữ tâm tốt đó là tu. Nói việc
tốt, làm việc tốt đó là phương pháp trợ giúp công phu chính là để trừ bỏ vô
minh cho nên gọi là trợ hạnh. Trợ hạnh nói rộng ra là tu Sáu pháp Ba La Mật,
nhưng khó hiểu. Hễ làm việc ác mà có lợi trăm ngàn tiền vàng cũng không làm.
Còn đối với việc lành dù bị bất cứ trở ngại nào cũng phải làm. Hai điều này gọi
là “Tùy duyên tiêu nghiệp cũ, chẳng gây tai ương mới”. Thường ngày gặp việc
lành thì làm, việc ác nên tránh. Nếu khi niệm Phật thì buông bỏ muôn duyên, vừa
khởi niệm ác liền dùng câu danh hiệu Phật Nam mô A Di Đà Phật để đè nén chúng,
Thâu nhiếp ba nghiệp thân, khẩu, ý, an trụ tâm vào câu Phật hiệu. Y theo đó mà
làm, lâu ngày sẽ thành công, cho nên nói pháp môn niệm Phật “muôn người tu,
muôn người vãng sanh”. Khi công phu nên ngồi yên tịnh nên buông bỏ muôn duyên,
quét sạch mọi vọng niệm, tạp sự trong thường ngày, sau đó thâu nhiếp tâm một
nơi, buộc tâm vào câu Hồng danh. Ví như ghe thuyền trên dòng nước chảy xiết,
buộc vào cây cọc thì không bị trôi mất, đây là cách công phu đắc lực.
Khi trì danh cần phải đem sáu chữ Hồng danh này, từ
tâm phát khởi, từ miệng niệm ra, từ tai nghe vào, ví như ba bánh xe xoay vần
tới lui. Cốt phải tâm tưởng rành rẻ rõ ràng, miệng niệm rành rẽ rõ ràng, tai nghe rành rẻ rõ ràng. Như thế
tự niệm tự nghe, mỗi chữ mỗi chữ thành khẩn, chớ để đánh mất một câu, đó là cách
công phu.
Khi chúng ta niệm Phật, chẳng luận miệng niệm hay ý
trì, nên khiến cho hoàn toàn không có xen tạp những âm thanh khác, chỉ còn
tiếng niệm Phật hiệu. Vì pháp thân Phật A Di Đà khắp tất cả chỗ nơi, ánh sáng
của Phật cũng cùng khắp tất cả chỗ nơi, nên khi niệm Phật từ ta mà phát ra
tiếng nơi tâm, tiếng nơi tâm vào trong ánh sáng của Phật, ánh sáng của phật vào
trong tiếng nơi tâm, như thế tiếng nơi tâm và ánh sáng của Phật giao dung thì
ta tức Phật A Di Đà, Phật A Di Đà tức ta. Đó là công phu đắc lực.
Y theo điều
nói trên tinh tấn tu hành, tiến lên mãi, khiến cho nghiệp lực tiêu mòn, đạo lực
tăng trưởng cho đến ngày thành công nhất tâm bất loạn.
Về pháp tu trợ hạnh: Phương pháp tu chánh hạnh cố nhiên thẳng tắt
và nhanh chóng, nhưng chúng sanh vì nghiệp lực sâu dày, phiền não tập khí quá
nặng, vọng niệm lăng xăng. Nay muốn dùng câu danh hiệu Phật bổng chốc một lúc
buộc khiến chẳng tạo nghiệp, không vọng tưởng thì chẳng thể trong một thời gian
ngắn mà làm được. Nên cần phải phụ trợ vào công phu trợ hạnh. Hằng ngày phải
tỉnh xét lại lỗi lầm của mình, thành tâm sám hối, nguyện chừa bỏ, khiến cho
tiêu trừ nghiệp chướng, còn thấy người khác làm lành thì vui theo khen ngợi, để
tăng phước tăng đức. Sám hối và tùy hỷ như thế đều hồi hướng vãng sanh Tây phương,
đó là cách tu trợ hạnh.
Trong sinh
hoạt hằng ngày, chẳng luận ăn mặc, đi đứng, nói chung tất cả đều xem là vô
thường bất tịnh, chẳng an, khởi tâm không ham thích, muốn xa lìa, chán nản muốn
xa thì không có tâm tham luyến. Trái lại ưa thích, hâm mộ Tây phương Cực lạc,
Có hâm mộ tự nhiên tâm thêm nguyện cầu sanh Tịnh độ. Khi đã có tâm chán xa lìa,
khởi tâm ham muốn cầu sanh Tịnh độ, thì thân tuy cư ngụ nơi Ta bà mà đã là
khách sớm về Cực lạc. Tuy chưa lên Cực lạc mà đã sớm dự vào hàng khách quý nơi Liên
Bang. Đó là bí quyết vi diệu của Tịnh tông, là phần cơ bản của pháp tu trợ
hạnh./.
(Trích phần Phật Học trong Toàn tập của cư sĩ
Lý Bỉnh Nam)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét