Pháp Tứ Diệu Đế là một pháp môn Diệu Pháp, bài pháp
đầu tiên Phật thuyết cho năm anh em Kiều Trần Như. Bài pháp đã khiến cho tất cả
tôn giáo ngoại đạo rung chuyển, được xem một bài pháp làm cho cả thế giới chấn
động và thế giới siêu hình thần linh rơi rụng như lá mùa thu.
KHỔ là một diệu đế trong Tứ diệu đế. Khổ là quả. Ham
muốn là nhân. Khổ là do lòng ham muốn mà ra. Muốn hết khổ thì dừng tham. Khi đã
khổ thì không thể lễ lạy cầu xin thần thánh mà hết khổ được đâu. Chỉ cần chấm
dứt lòng tham muốn thì khổ sẽ hết.
Cho nên Phật dạy “Ly dục ly bất thiện pháp” do Ly
dục sanh hỷ lạc. Hỷ lạc là hân hoan vui vẻ an lạc. Khi được hỷ lạc thì thân tâm
an lạc vô sự. Nghe hết khổ thì ai cũng ham thích, nhưng buông bỏ thì ít ai làm
được. Bỏ cái gì thì dễ chứ bỏ lòng tham, sân, si, mạn, nghi thì quá khó, nên
muốn hết khổ thì khó mà hết được.
Vậy muốn hết
khổ phải đi vào con đường tu tập.
Người tu tập
phải thực hành tám pháp như sau:
1/ Phải thân
cận bậc chân sư.
2/ Phải nghe
chân diệu pháp
3/ Phải khởi
lòng tin
4/ Phải như
lý tác ý
5/ Phải
chánh niệm tỉnh giác
6/ Phải chế
ngự sáu căn
7/ Phải tu
tập ba thiện hạnh (Ba thiện hạnh: Ý hành thiện, Thân hành thiện, khẩu hành
thiện)
8/ Tu tập Tứ
niệm xứ.
a/ Quán thân bất tịnh
b/ Quán Thọ thị khổ.
b/ Quán Thọ thị khổ.
c/ Quán Tâm vô thường
d/ Quán pháp vô ngã.
d/ Quán pháp vô ngã.
Tu tập theo Phật là tu tập ly dục ly bất thiện pháp,
mà ly dục ly bất thiện pháp phải dùng tri kiến, nhưng tri kiến phàm phu không
thể giải thoát được. Vì thế phải dùng tri kiến giải thoát, muốn có tri kiến
giải thoát thì phải học.
Có 11 tri kiến giải thoát:
1/ Phải biết rõ các sắc, đối với sắc pháp không như
thật, biết tất cả loại sắc thuộc bốn đại và sắc do bốn đại hợp thành nên là
pháp vô thường, mà vô thường là khổ. Do hiểu biết như vậy, người ấy không chấp
đắm vào sắc, tức là không chấp đắm vào tứ đại. Không chấp đắm vào Tứ đại là
người có tri kiến giải thoát.
2/ Tri kiến thứ 2: Do nghiệp tướng, nghiệp tướng
phân biệt mà tạo nên thân mạng và cảnh giới. Nghiệp tướng do sự tạo tác của
thân, khẩu, ý tạo nên nghiệp. Các tướng riêng biệt của mỗi người, các loài
chúng sanh đều do hành động thiện ác khác nhau mà có tướng sai khác. Khi hiểu
về nghiệp tướng nên thân tâm không làm ác. Đó là tri kiến giải thoát.
3/ Tri kiến về dục tầm, sân tầm, hại tầm là tri kiến
hiểu rõ về lòng tham muốn về lòng sân giận về những ý nghĩ làm khổ mình khổ
người. Khi tri kiến hiểu rõ các ác pháp đó, thì khi tâm niệm khởi lên những ác
pháp nó liền diệt và loại trừ ra khỏi tâm.
4/ Tri kiến thứ tư: là tri kiến phòng hộ sáu căn,
tức là sự hiểu biết gìn giữ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của mình không cho
dính mắc sáu trần, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Muốn giữ sáu căn thanh
tịnh thì phải thực tập hạnh sống độc cư là phương pháp phòng hộ tốt nhất.
5/ Khi đã thông suốt bốn tri kiến giải thoát trên
rồi, hành giả có một đời sống an lạc không có một ác pháp nào tác động làm cho
tâm hồn buồn khổ, lo rầu ưu bi phiền não. Khi tâm chúng ta được giải thoát như
vậy, chúng ta nên đem dạy lại cho người khác hiểu biết để mọi người được giải
thoát như chúng ta. Tri kiến thứ năm này là thực hiện lòng tốt của mình với mọi
người, đem lợi ích của mình cho mọi người cùng nhau lợi ích.
6/ Tri kiến giải thóat thứ sáu là tri kiến giải trừ
mọi tâm nghi nghờ, nó giúp cho mọi người không còn nghi nghờ chánh pháp của
Phật. Nghi nghờ là một ác pháp chúng ta cần khắc phục và diệt trừ tâm nghi
nghờ. Hết tâm nghi nghờ là được giải thoát.
7/ Tri kiến thứ bảy: là tri kiến hiểu và thực hành
giới luật, thiết lập đời sống đạo đức, vì có giới luật và đức hạnh, người tu
mới làm chủ được cuộc sống, không lo sợ sanh, già, bệnh, chết ở hiện tại và mai
sau.
8/ Tri kiến thứ tám là tri kiến hiểu biết về Bát
Chánh Đạo:
1.Chánh Kiến: Hiểu rõ sắc pháp là do 4 đại hòa hợp mà thành, là pháp duyên sanh nên
không thật có.
2. Chánh tư duy: là sự tư duy không làm khổ mình, khổ người và tất cả chúng sanh.
3. Chánh ngữ: Lời nói ôn hòa nhã nhẹ khiến người nghe được an vui, không buồn khổ.
4. Chánh nghiệp: Tất cả hành động thân, miệng, ý đều phải thực hành những điều lành và
luôn ngăn những hành động xấu ác.
5. Chánh mạng: Nuôi mạng sống bằng những thực phẩm không có giết hại sanh mạng chúng
sanh, không có sự đau khổ, không có sự kêu la thảm thiết.
6. Chánh tinh tấn: Tu tập Tứ chánh Cần, hằng ngày ngăn ác và diệt ác, phát triển hạnh
lành.
7. Chánh niệm: giữ tâm thanh tịnh, tu tập các pháp, Tứ niệm xứ, niệm Phật, niệm
pháp, niệm tăng, niệm thiên v.v...
8. Chánh định: Nhiếp tâm vào các pháp tu như quán sổ tức, quán tưởng tướng tốt của
Phật, nhiếp tâm không loạn, không để vọng tưởng chi phối, tâm luôn an trú.
Thực hành tám tri kiến giải thoát trên về Bát chánh
đạo, hành giả sẽ sống trong trạng thái giải thoát.
9/ Tu tập pháp Tứ niệm xứ: Tứ niệm xứ là để tâm vào
bốn đề mục: a/ Quán thân: bất tịnh b/
Quán Tâm: vô thường c/ Quán Thọ: thị
khổ. d/ Quán pháp: vô ngã.
10/ Tri kiến thứ 10 là phải biết thiểu dục tri túc.
Người tu phải biết tri túc “tam thường bất túc” ăn, mặc, ở, phải khiêm tốn giản
dị, không cầu kỳ lập dị, không tham danh mê lợi, phải biết buông xả vật chất,
phải biết chia sẻ khó khăn với người khác.
11/ Tri kiến thứ 11 là phải biết tôn kính những bậc
trưởng thượng, những bậc tu hành chân chính, những bậc có hạ lạp lớn đạo cao
đức trọng, phải cung kính tôn trọng. Tôn kính những bậc có giới luật tinh
nghiêm, phải biết thưa hỏi đón chào, biết nhường chổ ngồi hoặc giúp đỡ họ những
lúc đi đứng không vững.
Mười một
tri kiến này nếu biết áp dụng vào đời sống hằng ngày thì sẽ thấy tâm an ổn.
Mười một tri kiến này giúp ta ly dục ly bất thiện pháp. Không nhất thiết ngồi
thiền lâu để thành tựu tâm giải thoát, đạo giải thoát./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét