Giáo dục Phật giáo xây dựng một con người hoàn thiện
trên ba phương diện về thể dục, đức dục và trí dục.
Thể dục ăn uống điều độ, ngủ nghỉ, đi đứng hợp thời
hợp lúc, không tổn hại cơ thể, không sanh các tật bệnh. Đức dục xây dựng con người hiền thiện, độ
lượng khoan dung. Trí dục, có trí tuệ sáng suốt phân biệt chánh tà, thấy xa
hiểu rộng các lãnh vực tâm lý vật lý, hiện tại, quá khứ, vị lai.
Giáo dục Phật giáo giúp con người phát triển toàn
diện từ thể chất đến tinh thần. Thể dục giúp con người có một thân thể cường
tráng và khỏe mạnh, không tật bệnh. Đức dục giúp con người có một tâm hồn hiền
thiện thanh thoát tự tại. Trí dục giúp con người thoát khỏi những mê lầm tà
kiến, loại bỏ những tư tưởng mê tín dị đoan tiêu cực.
Con đường giáo dục của Phật giáo dựa trên ba tiêu
chí Giới, Định, Tuệ. Giới là tiêu chuẩn của đạo đức để điều chỉnh các hành vi
gây tai hại cho cơ thể và tâm hồn như: Rượu chè, cờ bạc, trộm cắp, nói dối, tà
hạnh. Các điều này khi vi phạm sẽ tác hại đến thân và tâm con người, ảnh hưởng
đến môi trường chung quanh như gia đình và xã hội. Thiền định giúp cho tâm hồn
con người được yên tịnh phát triển trí tuệ và bảo vệ sức khỏe. Tuệ học là việc
thực tập Văn, Tư, Tu để phát triển trí thức, thấu rõ bản chất của các pháp và
đạt được hạnh phúc chân thật.
Áp dụng phương pháp giáo dục, Giới, Định,Tuệ thì con
người được giáo dục một cách toàn diện
và hoàn chỉnh từ thể xác đến tinh thần.
Giáo dục phật giáo là sự tự thân phải học tập và thực
hành, hoàn thiện thông điệp Từ bi cùng với Trí tuệ để có hạnh phúc. Hạnh phúc
chỉ có mặt khi được giáo dục theo tiêu chuẩn đạo đức của phật giáo. Vì đạo đức
Phật giáo là sự trình bày trên phương pháp rèn luyện thân và tâm dựa trên nhận
thức chân chính về các giá trị đạo đức chuẩn mực (giới) đưa đến chánh niệm và
tỉnh giác (Định) được biểu hiện qua hành động và ngôn ngữ đem lại hạnh phúc cho
tự thân và tha nhân. Dựa trên học thuyết duyên khởi. Thế Tôn luôn xem trọng vấn
đề giáo dục hướng đến xây dựng mẫu người toàn diện trên hai phương diện thể xác
và tinh thần có đầy đủ từ bi và trí tuệ. Thế Tôn không những giáo dục trong
phạm vi Tăng đoàn mà còn xây dựng một phương pháp giáo dục nhằm hoàn thiện con
người trong gia đình, trường học và xã hội.
Giáo dục trong gia đình rất quan trọng, cha mẹ có
nhiệm vụ giáo dục đạo đức và định hướng tri thức cho con cái. Giáo dục nhà
trường cũng rất quan trọng. Thầy phải cung cấp cho trò nguồn tri thức chuyên
môn cho học trò. Giáo dục xã hội là mỗi cá nhân học tập từ bạn bè và người lãnh
đạo.
Xã hội có phát triển và tồn tại cần có sự giáo dục
và sự kế thừa kinh nghiệm của các thế hệ. Vì thế, giáo dục là bước tiến bộ vĩ
đại của xã hội loài người. Bởi vì không có giáo dục con người sẽ giống như các
loài động vật khác, chỉ sống theo bản năng thú tính của mình mà thôi. Con người
nhờ giáo dục thoát khỏi trạng thái mê muội, phát triển về năng lực tư duy và
thể chất. Con người thời cổ đại, bị nô lệ trước thiên nhiên và thần thánh. Ngày
hôm nay, nhờ có giáo dục trí tuệ con người phát triển, đã chinh phục được thiên
nhiên, phục vụ đời sống và đặt con người mình ngang hàng với thần thánh.
Mục đích giáo dục của Phật giáo là lấy trí tuệ làm
sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp). Đức Thế Tôn dạy, chính vì nhận thức sai lầm về
thế giới (vô minh) là nguyên nhân đưa đến tất cả khổ đau. Vô minh thể hiện hai
trạng thái là tham lam và sân hận, được biểu hiện thành các hành động sai lầm
của thân và miệng gây nên khổ đau cho mình và gây nguy hại đến lợi ích của
người khác. Hành động của thân và lời nói của miệng được chỉ đạo của ý thức. Vì
vậy, giáo dục là dạy phương pháp đoạn trừ các sai lầm về nhận thức, loại bỏ vô
minh, dạy phương pháp tư duy chân chính, dạy các đạo lý quy luật của cuộc sống.
Tinh thần giáo dục tự do của
Phật giáo.
Nền giáo dục phải đứng trên tinh thần phê phán và
khai phóng khoa học. Đức Thế Tôn rất đề cao tinh thần phản biện và tinh thần
phê phán khoa học. Đức Thế Tôn kêu gọi mọi người có quyền được tự do hội họp,
khuyến khích tổ chức nhiều cuộc hội đoàn, để mọi người trao đổi, xây dựng và
đóng góp ý kiến. Tri thức chính xác có được là do quá trình tư vấn, tư duy và
nghe những người khác truyền đạt. Tinh thần phản biện là biết tư duy phân tích
và đánh giá một thông tin đã có theo cách nhìn khác cho vến đề được đặt ra nhằm
sáng tỏ và khẳng định tính chính xác của vấn đề tri thức. Mục đích của tư duy
phản biện chính là có được tri thức đúng đắn nghĩa là có chính tri kiến về các
vấn đề tự nhiên và xã hội.
Giáo dục ứng dụng của Phật
giáo.
Đức Thế Tôn nói pháp không chỉ hợp cơ, khế lý mà còn
khế thời, phù hợp và đáp ứng được những gì mà chúng sanh, hôm nay, hôm qua và
ngày mai mong đợi. Ngài là người đem lại ánh sáng trí tuệ, giác ngộ cho cuộc
đời và diệt trừ những nguyên nhân gây khổ đau cho cuộc đời.
Khi tự thân Ngài tìm ra được nguyên nhân của khổ và
con đường diệt khổ, rồi giảng dạy lại những gì đã thân chứng. Đức Thế Tôn đã tuyên
bố rằng: “Này các Tỳ kheo, Như Lai nói gì thì làm vậy, làm gì nói vậy. Vì rằng
nói gì làm vậy, làm gì nói vậy, nên Ngài được gọi là Như lai.” Từ đó, vấn đề
giáo dục của Phật giáo luôn gắng liền với hai tiêu chí là lý thuyết và thực
hành. Giáo dục là giảng dạy lý thuyết nhưng lý thuyết đó không phải dùng để lý
luận thuần túy mà dùng để ứng dụng đem lại lợi ích cho tự thân và tha nhân
Quan điểm giáo dục bình đẳng
của Phật giáo.
Giáo lý đạo Phật đặt trên nền tảng tinh thần Từ bi
và Trí tuệ. Chính vì vậy mà Phật giáo luôn coi trọng sự bình đẳng. “Không có
giai cấp trong dòng màu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn”. Chính việc Thế Tôn không
công nhận giai cấp là đã tạo cho tất cả mọi người có cơ hội tiếp cận và học hỏi
tri thức và sáng tạo. Mọi người đều có quyền được nhận lãnh sự giáo dục, đây
được xem là cuộc cách mạng về xã hội lúc bấy giờ. Theo quan điểm của Bà la môn
giáo, chỉ có giai cấp Bà la môn và Sát đế lợi mới có quyền được nhận lãnh sự
giáo dục và độc quyền tri thức. Hai giai cấp bị trị là Phệ xá và Thủ đà la, bị
bỏ quyền được học và tìm hiểu tri thức. Với việc cho các giai cấp được gia nhập
giáo đoàn và trực tiếp được học tập dưới sự hướng dẫn của Thế Tôn. Các cá nhân
dù trong giai cấp nào khi được học tập theo một trình tự, đúng phương pháp đều
có khả năng hiểu biết và giác ngộ. Sau khi tự thân nổ lực học tập và thực hành
lời dạy của đức Thế Tôn các vị ở giai cấp thấp đã chứng Thánh quả, như Tôn giả
Ưu Ba Ly, người thợ hớt tóc, như Angulimala (Vô não) kẻ một thời làm tướng cướp
cũng chứng quả Thánh. Từ đó minh chứng rằng giáo dục giúp con người chuyển hóa,
thay đổi và phát triển theo chiều hướng tiến bộ, đem lại hạnh phúc cho con
người. Xa hơn nữa, chính giáo dục giúp con người xích lại gần nhau hơn, xóa bỏ
bức tường ngăn cách về giai cấp, tôn giáo và chủng tộc, cùng sống chung nhau
trong mối quan hệ đoàn kết, từ bi và trao đổi xây dựng và phát triển tính chất
toàn cầu hóa như hôm nay..
Giáo lý Duyên khởi là nền
tảng giáo dục Phật giáo.
Mục đích giáo dục của Thế Tôn là nhắm vào đời sống
của con người và xã hội, để giải quyết những bế tắc về con người và xã hội.
Nguyên lý duyên khởi đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập hệ tư tưởng của
đạo Phật. Thế Tôn thiết lập nền giáo dục dựa trên vô ngã và duyên sanh để cải
tạo con người. Thế Tôn dạy rằng: Con người chỉ là tổ hợp vận hành của năm yếu
tố mà tồn tại. Con người do không có ngã tánh thường hằng nên con người có thể
chuyển hóa được và có khả năng chuyển hóa. Đức Thế Tôn tuyên bố rằng: “Này các Tỳ kheo, sắc là vô thường, thọ là vô
thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường. Này các Tỳ
kheo, sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô
ngã. Tất cả hành vô thường, tất cả pháp là vô ngã ”. Đây là tiếng nói đích
thức về thế giới và con người, vượt lên các phạm trù tư duy hữu ngã, lời dạy
mang chất liệu nhân của tính, chân thật, của quy luật vận hành duyên khởi. Đức
Thế Tôn xây dựng nên một con đường chuyển hóa với chất liệu vô ngã để kiến tạo
nên một tri thức mà ở đó không ẩn chứa vô minh, căm thù, sân hận và tham vọng,
các phiền não lậu hoặc bị dập tắt và sẽ mãi không còn hiện hữu. Khi con đường
giáo dục bằng định hướng vô ngã được thiết lập, Đức Thế Tôn đã sử dụng phương
pháp trên để mỗi cá nhân tự bước vào con đường chuyển hóa, cải đổi con người vô
minh thành người giác ngộ, từ con người phàm phu trở thành bậc Thánh.
Tinh thần giáo lý duyên khởi là nền móng vững chắc
chô việc xây dựng một nền “giáo dục khai phóng “giúp giải phóng con người ra
khỏi tình trạng vong thân tối tăm của tâm thức, nô lệ theo kiểu thần quyền.
Giáo dục theo tinh thần duyên khởi là một cuộc cách mạng khai phóng tư duy con
người, trao quyền tự do chọn lựa và tự thân hoạch định vận mệnh cho chính mình.
Bản chất của giáo dục là đạt
hạnh phúc.
Khi con người bắt đầu học tập để tìm về vô ngã là
đang khám phá bản chất con người và giải phóng con người. Khi nào con người tư
duy theo lối hữu ngã thì tham ái, chấp thủ và lòng vị kỷ có cơ hội để phát
triển và tồn tại, thách thức khổ đau sẽ có mặt với con người. Tìm về chân lý
cuộc đời tức là về lại với cội nguồn nguyên thể của chính mình để cảm thông cho
mình đã bao lần lầm lạc trong bóng đêm. Vậy nên, giáo dục là dạy con người đem
tình thương, lòng vị tha dâng tặng cho tha nhân, khai mở suối nguồn tươi mát
cho đời. Giáo dục để con người sống đúng nghĩa, mở cõi lòng hạnh nguyện vị tha
giúp cho đời thoát khỏi ngục tù cố chấp, bảo thủ và điên cuồng trong bạo lực và
dục vọng thấp hèn. Đó là hướng đi mới của nền giáo dục biết tìm về bản chất con
người và sự thật của cuộc đời. Thế Tôn khuyên bảo các đệ tử khi đi hoằng dương chánh pháp: “ Này các Tỳ kheo, hãy du hành vì hạnh phúc
cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi
ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người. Chớ có đi hai người
một chổ. Này các Tỳ kheo, hãy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện và hậu thiện,
có nghĩa, có văn. Hãy thuyết thuyết phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh.
Có chúng sanh, sanh ra ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe pháp sẽ đi đến
hoại diệt. Còn nếu được nghe, họ sẽ trở thành những vị thâm hiểu chánh pháp “Mục
đích tối thượng của giáo dục Phật học là truyền trao chất liệu mang lại hạnh
phúc an lạc cho tất cả chúng sanh. Trong đó người Thầy giảng dạy phải có tâm từ
bi, đức hạnh và trí tuệ. Tất cả lời dạy phải có văn có nghĩa, có giá trị đạo
đức tốt đẹp trong ba thời. Khi được giáo dụng trong một môi trường tốt thì con
người sẽ được thay đổi và chuyển hóa theo chiều hướng tiến bộ. Nghĩa là nhờ có
giáo dục nên con người được chuyển hóa từ phàm thành Thánh và sẽ nắm bắt được
tri thức và sẽ chuyển hóa và chấm dứt nổi khổ niềm đau, sống cuộc sống lành
mạnh an vui hạnh phúc bây giờ và ở đây.
Giáo dục văn hóa ứng xử.
Cá nhân là một nhân tố của xã hội, cá nhân có lành
mạnh thì xã hội mới được an bình. Cho nên giáo dục cá nhân là giáo dục có ý
thức thực hiện trọn vẹn trách nhiệm nghĩa vụ và bổn phận của tự thân và với gia
đình và xã hội. Ngoài việc giáo dục khai mở trí tuệ và tài năng, song hành giáo
dục phát huy đạo đức, trong đó bao gồm lễ nghĩa, trách nhiệm và nghĩa vụ của
mỗi cá nhân đối với tự thân và xã hội.
Phương pháp ứng xử của Thế Tôn giảng dạy là cách
thức ứng xử thể hiện thái độ tình cảm, tâm lý, trạch nhiệm nghĩa vụ của mỗi cá
nhân trong quan hệ ở gia đình và ngoài xã hội. Văn hóa ứng xử là thể hiện sự cụ
thể hóa tư tưởng “giải thoát “tâm, giúp giải phóng con người khỏi áp bức bất
công do quan niệm về đẳng cấp xã hội của Bà la môn quy định, tạo ra sự bình
đẳng trong các mối quan hệ xã hội. Giái cấp thống trị luôn xem thường và khinh
miệt giai cấp bị trị. Chính vì vậy, Thế Tôn đã đưa ra chuẩn mực về văn hóa ứng
xử giữa chồng với vợ, cha mẹ và con cái, giữa thầy và trò, giữa chủ và tớ, giữa
lãnh đạo và nhân viên, giữa bạn bè, giữa tu sĩ và tín đồ. Nhằm điều chỉnh thái
độ, hành vị của cá nhân trong các mối quan hệ khác nhau, tạo nên văn hóa tốt
đẹp cho xã hội.
Thế Tôn đã giới thiệu những nguyên tắc ứng xử mang
tính văn hóa từ cá nhân gia đình đến xã hội, như một mô hình sống xã hội lý
tưởng. Văn hóa ứng xử thể hiện tinh thần trung đạo, dựa trên nguyên lý duyên
khởi. Mỗi cá nhân phải ứng xử với nhau một cách hài hòa, tránh mọi cực đoan
thái quá. Văn hóa ứng xử lấy sự hoàn thiện nhân cách làm cơ sở, từ hành động
đến ngôn ngữ mang lại lợi ích cho tự thân và tha nhân cả hai đều có lợi ích.
Văn hóa ứng xử góp phần vào việc xây dựng một xã hội tiến bộ an bình bền vững
và phát triển, tạo nên mối quan hệ đoàn kết, hướng đến một xã hội an ninh trật
tự.
Mỗi một thành viên trong gia đình hay xã hội ứng xử
với nhau một cách có văn hóa bằng tình thương, thì không thể nào xảy ra xung
đột và tranh chấp. Vì mỗi cá nhân biết chế ngự các giác quan, làm chủ các giác
quan nên không bị trần cảnh chi phối sai sử. Việc giữ gìn các giác quan giúp
con người chiến thắng và vượt qua cám dỗ với tham, sân, si của bản thân, mỗi
người làm được như vậy là người chiến thắng, là người có an lạc, có hạnh phúc.
Cội gốc của ứng xử văn hóa là một người có đạo đức biết điều phục và chế ngự
tâm, sống tùy thuận pháp duyên khởi.
Xác định mục đích của học
Phật:
Học Phật chỉ vì một mục đích đó là giải thoát. Chính
đức Thế Tôn đã tuyên bố giáo pháp giúp cho chúng sanh đạt được sự giải thoát.
Phật pháp chỉ có một vị, đó là vị giải thoát hết khổ. Vị giải thoát có hai: một
là giải thoát cho tự thân, hai là giải thoát cho hết thảy chúng sanh. Vậy nên
giải thoát là nội dung chính yếu trên vấn đề học Phật. Muốn đạt giải thoát thì phải loại bỏ phiền
não, lậu hoặc, đạt được giải thoát là đi vào trạng thái Niết bàn. Từ đó có thể
thấy rằng, giác ngộ, giải thoát, Niết bàn là ba mặt của một vấn đề, tất cả đều
chỉ là mục đích tối thượng của người tu học Phật pháp.
Mục đích của việc học tập Phật pháp là để phân biệt
thiện pháp và bất thiện pháp, phân biệt chánh tà, chơn ngụy. Thế nào đúng thế
nào sai để khỏi lầm đường lạc lối, tạo nên một chánh tri kiến. Đức Phật nói: “Tin
Ta mà không hiểu Ta là hủy báng Ta”. Vậy học Phật là dùng trí để suy xét, quan
sát, phán đoán, suy luận để hiểu rõ đúng sai. Khi đã xác lập lời dạy ấy là
đúng, từ đó mới khởi lòng tin và tiến đến thực hành. Là đệ tử Phật phải luôn
ghi lòng và suy niệm rằng: “hãy tự mình là ngọn đuốc soi đường cho chính mình,
hãy tự mình là chỗ nương tựa cho chính mình, chớ nương tựa một gì khác”. Học
Phật pháp cần phải dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương
tựa, chớ nương tựa một gì khác. Với ánh sáng ngọn đuốc tuệ giác của bản thân và
ngọn đuốc chánh pháp của Phật pháp sẽ giúp chúng sanh thoát khỏi bóng tối vô
minh, vượt khổ trầm luân sanh tử khổ đau.
{—]–{
Con đường
học Phật chỉ vì mục đích giải thoát các lậu hoặc để hạnh phúc luôn hiện hữu.
Đức Thế Tôn dạy các phương pháp thực hành để đoạn tận khổ đau. Lý thuyết đi đôi
với thực hành mới thật sự đem lại sự trãi nghiệm để đạt kết quả đoạn tận khổ
đau. Đức Thế Tôn dạy rằng: “Này các Tỳ
kheo, có những lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải
do phòng hộ được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ, có
những lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do né
tránh được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ”. Các vấn đề đưa đến chấm dứt khổ đau trình tự
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp. Như do tri kiến, do phòng hộ, do thọ dụng, do kham nhẫn, do né tránh, do
tu tập để chuyển hóa và đoạn trừ khổ đau. Tất cả đều phải cần ở sự tự thân vận
động thực hành, trãi nghiệm và thực chứng tu tập. Tiến trình nhận thức thực
nghiệm là một hệ thống trực nghiệm chân lý đi từ việc “vị ấy sống không phóng đật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy
thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trụ,
chuyên nhất định tĩnh.”Vì vậy, hạnh phúc không phải đợi đến khi có kết quả
mà là ở ngay trong quá trình thực hiện của việc tu tập. Không phải đợi đạt được
sự chứng ngộ, hay ở đời sau mà hạnh phúc và an lạc của nội tâm hiện hữu ngay
trong lúc tu tập ở đây và bây giờ./.
{—]–{
Tóm
lại các ý trên:
Giáo dục vị tha:
mục tiêu giáo
dục vị tha là bỏ ác làm lành. Bỏ ác mà không làm lành thuộc đạo đức thụ động,
tiêu cực. Bỏ ác lại làm lành là đạo đức tích cực. Thí như không sát sanh lại
phóng sanh, không trộm cắp lại bố thí. Thế nào là thiện và ác. Thiện là không
tham, sân, si, không ích kỷ. Ngược lại tham, sân, si, bỏn sẻn là ác. Thiện
không những không tham, sân si mà còn có Từ bi, hỷ xả.
Giáo dục toàn diện: Đạo phật giáo dục con
người trên ba phương diện là Thể dục, đức dục và trí dục. Bao gồm thể xác và
tinh thần dựa trên ba môn Giới, Định, Huệ.
Thể dục giúp con người khỏe mạnh. Đức dục giúp con người hiền thiện. Trí
dục giúp con người sáng suốt không mê lầm.
- Giáo dục tự do:
Đức Phật đề cao
tinh thần phản biện, tinh thần phê phán, khuyến khích hội họp, tổ chức hội đoàn
- Giáo dục
ứng dụng: Lời dạy của Thế Tôn luôn khế cơ, khế lý, và khế thời. Nói theo
ngôn ngữ hiện tại là:thiên thời, địa lợi và nhơn hòa đáp ứng nhu cầu nguyện
vọng chúng sanh đã qua hôm nay và ngày
mai. Lý thuyết gắng liền với thực hành. Lý thuyết đó không dùng để lý luận
thuần túy mà dùng để ứng dụng đem lại lợi ích cho tự thân và tha nhân.
- Giáo dục
bình đẳng: Giáo lý đặt trên nền tảng tinh thần Từ bi và Trí
tuệ. Chính vì vậy Phật giáo coi trọng sự bình đẳng “không có giai cấp trong
dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn “Chính Thế Tôn không công nhận giai cấp
là đã tạo cho mọi người có cơ hội tiếp cận và học hỏi tri thức, đây được xem là
cuộc cách mạng lúc bấy giờ.
- Giáo lý duyên
khởi: Giáo lý duyên khởi dựa trên nền tảng nguyên lý duyên
sanh vô ngã, là tiếng nói đích thực về thế giới và con người vượt lên các phạm
trù tư duy hữu ngã, kiến tạo một tri thức ở đó không ẩn chứa vô minh, căm thù,
sân hận và tham vọng, các phiền não lậu hoặc bị dập tắt. Cải hóa con ngươi vô
minh thành giác ngộ, phàm thành thánh, giải phóng con người ra khỏi tâm thức
tối tăm và nô lệ thần thánh. Tự thân hoạch định vận mệnh cho chính mình.
- Bản chất
giáo dục là để đạt hạnh phúc: Giáo dục của đạo Phật là dạy con người đem
tình thương, lòng vị tha dâng tặng cho tha nhân, khai mở suối nguồn tươi mát
cho đời. Giáo dục để con người sống đúng nghĩa, mở cõi lòng hạnh nguyện vị tha,
giúp cho đời khỏi ngục tù cố chấp, bảo thủ và điên cuồng trong bạo lực và dục vọng
thấp hèn. Thế Tôn dạy các Tỳ kheo hãy du hành hoằng dương chánh pháp, vì an lạc
cho quần chúng, vì lòng thương cho đời, Vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho
chư thiên và loài người. Chớ có đi hai người một chổ. Mục đích tối thượng của
giáo dục Phật học là truyền trao chất liệu mang lại hạnh phúc an lạc cho tất cả
chúng sanh. Nhờ có giáo dục con người sẽ chuyển hóa và chấm dứt khổ đau, sống
cuộc sống an vui hạnh phúc bây giờ và ở đây.
- Giáo dục
ứng xử: Cá nhân có lành mạnh thì xã hội mới an bình. Giáo dục cá nhân có ý
thức thực hiện trọn vẹn trách nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận của tự thân với gia
đình và xã hội, thể hiện thái độ tình cảm, tâm lý, trách nhiệm mỗi cá nhân
trong quan hệ gia đình và xã hội.
Văn hóa ứng xử giúp con người giải thoát tâm, giải
phóng con người khỏi áp lực bất công do quan niệm đẳng cấp của xã hội, tạo ra
sự bình đẳng trong quan hệ xã hội, như sự ứng xử giữa vợ và chồng, cha mẹ với
con cái, chủ với tớ, thầy với trò, tu sĩ với tín đồ, nhằm điều chỉnh thái độ và
hành vi của cá nhân trong mối quan hệ khác nhau. Văn hóa ứng xử lấy sự hoàn
thiện nhân cách làm cơ sở, từ hành động đến ngôn ngữ mang lại lợi ích cho tự
thân và tha nhân, xây dựng một xã hội an bình và phát triển, tạo mối quan hệ
đoàn kết hướng đến một xã hội an ninh trật tự. Văn hóa ứng xử đem lại bình an
trong cuộc sống trong đó không có những việc xung đột và tranh chấp. Vì mỗi
người biết chế ngự các giác quan và làm chủ các giác quan không bị trần cảnh
sai sử và chi phối, là người có đạo đức biết điều phục và chế ngự tâm và là
người chiến thắng./.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét