Thứ Hai, 5 tháng 6, 2017

GIÁO DỤC TOÀN DIỆN

Giáo dục Phật giáo xây dựng một con người hoàn thiện trên ba phương diện về thể dục, đức dục và trí dục.
Thể dục ăn uống điều độ, ngủ nghỉ, đi đứng hợp thời hợp lúc, không tổn hại cơ thể, không sanh các tật bệnh.  Đức dục xây dựng con người hiền thiện, độ lượng khoan dung. Trí dục, có trí tuệ sáng suốt phân biệt chánh tà, thấy xa hiểu rộng các lãnh vực tâm lý vật lý, hiện tại, quá khứ, vị lai.
Giáo dục Phật giáo giúp con người phát triển toàn diện từ thể chất đến tinh thần. Thể dục giúp con người có một thân thể cường tráng và khỏe mạnh, không tật bệnh. Đức dục giúp con người có một tâm hồn hiền thiện thanh thoát tự tại. Trí dục giúp con người thoát khỏi những mê lầm tà kiến, loại bỏ những tư tưởng mê tín dị đoan tiêu cực.
Con đường giáo dục của Phật giáo dựa trên ba tiêu chí Giới, Định, Tuệ. Giới là tiêu chuẩn của đạo đức để điều chỉnh các hành vi gây tai hại cho cơ thể và tâm hồn như: Rượu chè, cờ bạc, trộm cắp, nói dối, tà hạnh. Các điều này khi vi phạm sẽ tác hại đến thân và tâm con người, ảnh hưởng đến môi trường chung quanh như gia đình và xã hội. Thiền định giúp cho tâm hồn con người được yên tịnh phát triển trí tuệ và bảo vệ sức khỏe. Tuệ học là việc thực tập Văn, Tư, Tu để phát triển trí thức, thấu rõ bản chất của các pháp và đạt được hạnh phúc chân thật.
Áp dụng phương pháp giáo dục, Giới, Định,Tuệ thì con người được  giáo dục một cách toàn diện và hoàn chỉnh từ thể xác đến tinh thần.
Giáo dục phật giáo là sự tự thân phải học tập và thực hành, hoàn thiện thông điệp Từ bi cùng với Trí tuệ để có hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ có mặt khi được giáo dục theo tiêu chuẩn đạo đức của phật giáo. Vì đạo đức Phật giáo là sự trình bày trên phương pháp rèn luyện thân và tâm dựa trên nhận thức chân chính về các giá trị đạo đức chuẩn mực (giới) đưa đến chánh niệm và tỉnh giác (Định) được biểu hiện qua hành động và ngôn ngữ đem lại hạnh phúc cho tự thân và tha nhân. Dựa trên học thuyết duyên khởi. Thế Tôn luôn xem trọng vấn đề giáo dục hướng đến xây dựng mẫu người toàn diện trên hai phương diện thể xác và tinh thần có đầy đủ từ bi và trí tuệ. Thế Tôn không những giáo dục trong phạm vi Tăng đoàn mà còn xây dựng một phương pháp giáo dục nhằm hoàn thiện con người trong gia đình, trường học và xã hội.
Giáo dục trong gia đình rất quan trọng, cha mẹ có nhiệm vụ giáo dục đạo đức và định hướng tri thức cho con cái. Giáo dục nhà trường cũng rất quan trọng. Thầy phải cung cấp cho trò nguồn tri thức chuyên môn cho học trò. Giáo dục xã hội là mỗi cá nhân học tập từ bạn bè và người lãnh đạo.
Xã hội có phát triển và tồn tại cần có sự giáo dục và sự kế thừa kinh nghiệm của các thế hệ. Vì thế, giáo dục là bước tiến bộ vĩ đại của xã hội loài người. Bởi vì không có giáo dục con người sẽ giống như các loài động vật khác, chỉ sống theo bản năng thú tính của mình mà thôi. Con người nhờ giáo dục thoát khỏi trạng thái mê muội, phát triển về năng lực tư duy và thể chất. Con người thời cổ đại, bị nô lệ trước thiên nhiên và thần thánh. Ngày hôm nay, nhờ có giáo dục trí tuệ con người phát triển, đã chinh phục được thiên nhiên, phục vụ đời sống và đặt con người mình ngang hàng với thần thánh.
Mục đích giáo dục của Phật giáo là lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp). Đức Thế Tôn dạy, chính vì nhận thức sai lầm về thế giới (vô minh) là nguyên nhân đưa đến tất cả khổ đau. Vô minh thể hiện hai trạng thái là tham lam và sân hận, được biểu hiện thành các hành động sai lầm của thân và miệng gây nên khổ đau cho mình và gây nguy hại đến lợi ích của người khác. Hành động của thân và lời nói của miệng được chỉ đạo của ý thức. Vì vậy, giáo dục là dạy phương pháp đoạn trừ các sai lầm về nhận thức, loại bỏ vô minh, dạy phương pháp tư duy chân chính, dạy các đạo lý quy luật của cuộc sống.
Tinh thần giáo dục tự do của Phật giáo.
Nền giáo dục phải đứng trên tinh thần phê phán và khai phóng khoa học. Đức Thế Tôn rất đề cao tinh thần phản biện và tinh thần phê phán khoa học. Đức Thế Tôn kêu gọi mọi người có quyền được tự do hội họp, khuyến khích tổ chức nhiều cuộc hội đoàn, để mọi người trao đổi, xây dựng và đóng góp ý kiến. Tri thức chính xác có được là do quá trình tư vấn, tư duy và nghe những người khác truyền đạt. Tinh thần phản biện là biết tư duy phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo cách nhìn khác cho vến đề được đặt ra nhằm sáng tỏ và khẳng định tính chính xác của vấn đề tri thức. Mục đích của tư duy phản biện chính là có được tri thức đúng đắn nghĩa là có chính tri kiến về các vấn đề tự nhiên và xã hội.
Giáo dục ứng dụng của Phật giáo.
Đức Thế Tôn nói pháp không chỉ hợp cơ, khế lý mà còn khế thời, phù hợp và đáp ứng được những gì mà chúng sanh, hôm nay, hôm qua và ngày mai mong đợi. Ngài là người đem lại ánh sáng trí tuệ, giác ngộ cho cuộc đời và diệt trừ những nguyên nhân gây khổ đau cho cuộc đời.
Khi tự thân Ngài tìm ra được nguyên nhân của khổ và con đường diệt khổ, rồi giảng dạy lại những gì đã thân chứng. Đức Thế Tôn đã tuyên bố rằng: “Này các Tỳ kheo, Như Lai nói gì thì làm vậy, làm gì nói vậy. Vì rằng nói gì làm vậy, làm gì nói vậy, nên Ngài được gọi là Như lai.” Từ đó, vấn đề giáo dục của Phật giáo luôn gắng liền với hai tiêu chí là lý thuyết và thực hành. Giáo dục là giảng dạy lý thuyết nhưng lý thuyết đó không phải dùng để lý luận thuần túy mà dùng để ứng dụng đem lại lợi ích cho tự thân và tha nhân
Quan điểm giáo dục bình đẳng của Phật giáo.
Giáo lý đạo Phật đặt trên nền tảng tinh thần Từ bi và Trí tuệ. Chính vì vậy mà Phật giáo luôn coi trọng sự bình đẳng. “Không có giai cấp trong dòng màu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn”. Chính việc Thế Tôn không công nhận giai cấp là đã tạo cho tất cả mọi người có cơ hội tiếp cận và học hỏi tri thức và sáng tạo. Mọi người đều có quyền được nhận lãnh sự giáo dục, đây được xem là cuộc cách mạng về xã hội lúc bấy giờ. Theo quan điểm của Bà la môn giáo, chỉ có giai cấp Bà la môn và Sát đế lợi mới có quyền được nhận lãnh sự giáo dục và độc quyền tri thức. Hai giai cấp bị trị là Phệ xá và Thủ đà la, bị bỏ quyền được học và tìm hiểu tri thức. Với việc cho các giai cấp được gia nhập giáo đoàn và trực tiếp được học tập dưới sự hướng dẫn của Thế Tôn. Các cá nhân dù trong giai cấp nào khi được học tập theo một trình tự, đúng phương pháp đều có khả năng hiểu biết và giác ngộ. Sau khi tự thân nổ lực học tập và thực hành lời dạy của đức Thế Tôn các vị ở giai cấp thấp đã chứng Thánh quả, như Tôn giả Ưu Ba Ly, người thợ hớt tóc, như Angulimala (Vô não) kẻ một thời làm tướng cướp cũng chứng quả Thánh. Từ đó minh chứng rằng giáo dục giúp con người chuyển hóa, thay đổi và phát triển theo chiều hướng tiến bộ, đem lại hạnh phúc cho con người. Xa hơn nữa, chính giáo dục giúp con người xích lại gần nhau hơn, xóa bỏ bức tường ngăn cách về giai cấp, tôn giáo và chủng tộc, cùng sống chung nhau trong mối quan hệ đoàn kết, từ bi và trao đổi xây dựng và phát triển tính chất toàn cầu hóa như hôm nay..
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng giáo dục Phật giáo.
Mục đích giáo dục của Thế Tôn là nhắm vào đời sống của con người và xã hội, để giải quyết những bế tắc về con người và xã hội. Nguyên lý duyên khởi đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập hệ tư tưởng của đạo Phật. Thế Tôn thiết lập nền giáo dục dựa trên vô ngã và duyên sanh để cải tạo con người. Thế Tôn dạy rằng: Con người chỉ là tổ hợp vận hành của năm yếu tố mà tồn tại. Con người do không có ngã tánh thường hằng nên con người có thể chuyển hóa được và có khả năng chuyển hóa. Đức Thế Tôn tuyên bố rằng: “Này các Tỳ kheo, sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường. Này các Tỳ kheo, sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã. Tất cả hành vô thường, tất cả pháp là vô ngã ”. Đây là tiếng nói đích thức về thế giới và con người, vượt lên các phạm trù tư duy hữu ngã, lời dạy mang chất liệu nhân của tính, chân thật, của quy luật vận hành duyên khởi. Đức Thế Tôn xây dựng nên một con đường chuyển hóa với chất liệu vô ngã để kiến tạo nên một tri thức mà ở đó không ẩn chứa vô minh, căm thù, sân hận và tham vọng, các phiền não lậu hoặc bị dập tắt và sẽ mãi không còn hiện hữu. Khi con đường giáo dục bằng định hướng vô ngã được thiết lập, Đức Thế Tôn đã sử dụng phương pháp trên để mỗi cá nhân tự bước vào con đường chuyển hóa, cải đổi con người vô minh thành người giác ngộ, từ con người phàm phu trở thành bậc Thánh.
Tinh thần giáo lý duyên khởi là nền móng vững chắc chô việc xây dựng một nền “giáo dục khai phóng “giúp giải phóng con người ra khỏi tình trạng vong thân tối tăm của tâm thức, nô lệ theo kiểu thần quyền. Giáo dục theo tinh thần duyên khởi là một cuộc cách mạng khai phóng tư duy con người, trao quyền tự do chọn lựa và tự thân hoạch định vận mệnh cho chính mình.
Bản chất của giáo dục là đạt hạnh phúc.
Khi con người bắt đầu học tập để tìm về vô ngã là đang khám phá bản chất con người và giải phóng con người. Khi nào con người tư duy theo lối hữu ngã thì tham ái, chấp thủ và lòng vị kỷ có cơ hội để phát triển và tồn tại, thách thức khổ đau sẽ có mặt với con người. Tìm về chân lý cuộc đời tức là về lại với cội nguồn nguyên thể của chính mình để cảm thông cho mình đã bao lần lầm lạc trong bóng đêm. Vậy nên, giáo dục là dạy con người đem tình thương, lòng vị tha dâng tặng cho tha nhân, khai mở suối nguồn tươi mát cho đời. Giáo dục để con người sống đúng nghĩa, mở cõi lòng hạnh nguyện vị tha giúp cho đời thoát khỏi ngục tù cố chấp, bảo thủ và điên cuồng trong bạo lực và dục vọng thấp hèn. Đó là hướng đi mới của nền giáo dục biết tìm về bản chất con người và sự thật của cuộc đời. Thế Tôn khuyên bảo các đệ tử  khi đi hoằng dương chánh pháp: “ Này các Tỳ kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người. Chớ có đi hai người một chổ. Này các Tỳ kheo, hãy thuyết pháp sơ thiện, trung thiện và hậu thiện, có nghĩa, có văn. Hãy thuyết thuyết phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh. Có chúng sanh, sanh ra ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe pháp sẽ đi đến hoại diệt. Còn nếu được nghe, họ sẽ trở thành những vị thâm hiểu chánh pháp “Mục đích tối thượng của giáo dục Phật học là truyền trao chất liệu mang lại hạnh phúc an lạc cho tất cả chúng sanh. Trong đó người Thầy giảng dạy phải có tâm từ bi, đức hạnh và trí tuệ. Tất cả lời dạy phải có văn có nghĩa, có giá trị đạo đức tốt đẹp trong ba thời. Khi được giáo dụng trong một môi trường tốt thì con người sẽ được thay đổi và chuyển hóa theo chiều hướng tiến bộ. Nghĩa là nhờ có giáo dục nên con người được chuyển hóa từ phàm thành Thánh và sẽ nắm bắt được tri thức và sẽ chuyển hóa và chấm dứt nổi khổ niềm đau, sống cuộc sống lành mạnh an vui hạnh phúc bây giờ và ở đây.
Giáo dục văn hóa ứng xử.
Cá nhân là một nhân tố của xã hội, cá nhân có lành mạnh thì xã hội mới được an bình. Cho nên giáo dục cá nhân là giáo dục có ý thức thực hiện trọn vẹn trách nhiệm nghĩa vụ và bổn phận của tự thân và với gia đình và xã hội. Ngoài việc giáo dục khai mở trí tuệ và tài năng, song hành giáo dục phát huy đạo đức, trong đó bao gồm lễ nghĩa, trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi cá nhân đối với tự thân và xã hội.
Phương pháp ứng xử của Thế Tôn giảng dạy là cách thức ứng xử thể hiện thái độ tình cảm, tâm lý, trạch nhiệm nghĩa vụ của mỗi cá nhân trong quan hệ ở gia đình và ngoài xã hội. Văn hóa ứng xử là thể hiện sự cụ thể hóa tư tưởng “giải thoát “tâm, giúp giải phóng con người khỏi áp bức bất công do quan niệm về đẳng cấp xã hội của Bà la môn quy định, tạo ra sự bình đẳng trong các mối quan hệ xã hội. Giái cấp thống trị luôn xem thường và khinh miệt giai cấp bị trị. Chính vì vậy, Thế Tôn đã đưa ra chuẩn mực về văn hóa ứng xử giữa chồng với vợ, cha mẹ và con cái, giữa thầy và trò, giữa chủ và tớ, giữa lãnh đạo và nhân viên, giữa bạn bè, giữa tu sĩ và tín đồ. Nhằm điều chỉnh thái độ, hành vị của cá nhân trong các mối quan hệ khác nhau, tạo nên văn hóa tốt đẹp cho xã hội.
Thế Tôn đã giới thiệu những nguyên tắc ứng xử mang tính văn hóa từ cá nhân gia đình đến xã hội, như một mô hình sống xã hội lý tưởng. Văn hóa ứng xử thể hiện tinh thần trung đạo, dựa trên nguyên lý duyên khởi. Mỗi cá nhân phải ứng xử với nhau một cách hài hòa, tránh mọi cực đoan thái quá. Văn hóa ứng xử lấy sự hoàn thiện nhân cách làm cơ sở, từ hành động đến ngôn ngữ mang lại lợi ích cho tự thân và tha nhân cả hai đều có lợi ích. Văn hóa ứng xử góp phần vào việc xây dựng một xã hội tiến bộ an bình bền vững và phát triển, tạo nên mối quan hệ đoàn kết, hướng đến một xã hội an ninh trật tự.
Mỗi một thành viên trong gia đình hay xã hội ứng xử với nhau một cách có văn hóa bằng tình thương, thì không thể nào xảy ra xung đột và tranh chấp. Vì mỗi cá nhân biết chế ngự các giác quan, làm chủ các giác quan nên không bị trần cảnh chi phối sai sử. Việc giữ gìn các giác quan giúp con người chiến thắng và vượt qua cám dỗ với tham, sân, si của bản thân, mỗi người làm được như vậy là người chiến thắng, là người có an lạc, có hạnh phúc. Cội gốc của ứng xử văn hóa là một người có đạo đức biết điều phục và chế ngự tâm, sống tùy thuận pháp duyên khởi.

Xác định mục đích của học Phật:
Học Phật chỉ vì một mục đích đó là giải thoát. Chính đức Thế Tôn đã tuyên bố giáo pháp giúp cho chúng sanh đạt được sự giải thoát. Phật pháp chỉ có một vị, đó là vị giải thoát hết khổ. Vị giải thoát có hai: một là giải thoát cho tự thân, hai là giải thoát cho hết thảy chúng sanh. Vậy nên giải thoát là nội dung chính yếu trên vấn đề học Phật.  Muốn đạt giải thoát thì phải loại bỏ phiền não, lậu hoặc, đạt được giải thoát là đi vào trạng thái Niết bàn. Từ đó có thể thấy rằng, giác ngộ, giải thoát, Niết bàn là ba mặt của một vấn đề, tất cả đều chỉ là mục đích tối thượng của người tu học Phật pháp.
Mục đích của việc học tập Phật pháp là để phân biệt thiện pháp và bất thiện pháp, phân biệt chánh tà, chơn ngụy. Thế nào đúng thế nào sai để khỏi lầm đường lạc lối, tạo nên một chánh tri kiến. Đức Phật nói: “Tin Ta mà không hiểu Ta là hủy báng Ta”. Vậy học Phật là dùng trí để suy xét, quan sát, phán đoán, suy luận để hiểu rõ đúng sai. Khi đã xác lập lời dạy ấy là đúng, từ đó mới khởi lòng tin và tiến đến thực hành. Là đệ tử Phật phải luôn ghi lòng và suy niệm rằng: “hãy tự mình là ngọn đuốc soi đường cho chính mình, hãy tự mình là chỗ nương tựa cho chính mình, chớ nương tựa một gì khác”. Học Phật pháp cần phải dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác. Với ánh sáng ngọn đuốc tuệ giác của bản thân và ngọn đuốc chánh pháp của Phật pháp sẽ giúp chúng sanh thoát khỏi bóng tối vô minh, vượt khổ trầm luân sanh tử khổ đau.
                            {]{
  Con đường học Phật chỉ vì mục đích giải thoát các lậu hoặc để hạnh phúc luôn hiện hữu. Đức Thế Tôn dạy các phương pháp thực hành để đoạn tận khổ đau. Lý thuyết đi đôi với thực hành mới thật sự đem lại sự trãi nghiệm để đạt kết quả đoạn tận khổ đau. Đức Thế Tôn dạy rằng: “Này các Tỳ kheo, có những lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do né tránh được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ”.  Các vấn đề đưa đến chấm dứt khổ đau trình tự từ  thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Như do tri kiến, do phòng hộ, do thọ dụng, do kham nhẫn, do né tránh, do tu tập để chuyển hóa và đoạn trừ khổ đau. Tất cả đều phải cần ở sự tự thân vận động thực hành, trãi nghiệm và thực chứng tu tập. Tiến trình nhận thức thực nghiệm là một hệ thống trực nghiệm chân lý đi từ việc “vị ấy sống không phóng đật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trụ, chuyên nhất định tĩnh.”Vì vậy, hạnh phúc không phải đợi đến khi có kết quả mà là ở ngay trong quá trình thực hiện của việc tu tập. Không phải đợi đạt được sự chứng ngộ, hay ở đời sau mà hạnh phúc và an lạc của nội tâm hiện hữu ngay trong lúc tu tập ở đây và bây giờ./.

                       {]{
Tóm lại các ý trên:
 Giáo dục vị tha: mục tiêu giáo dục vị tha là bỏ ác làm lành. Bỏ ác mà không làm lành thuộc đạo đức thụ động, tiêu cực. Bỏ ác lại làm lành là đạo đức tích cực. Thí như không sát sanh lại phóng sanh, không trộm cắp lại bố thí. Thế nào là thiện và ác. Thiện là không tham, sân, si, không ích kỷ. Ngược lại tham, sân, si, bỏn sẻn là ác. Thiện không những không tham, sân si mà còn có Từ bi, hỷ xả.
Giáo dục toàn diện: Đạo phật giáo dục con người trên ba phương diện là Thể dục, đức dục và trí dục. Bao gồm thể xác và tinh thần dựa trên ba môn Giới, Định, Huệ.  Thể dục giúp con người khỏe mạnh. Đức dục giúp con người hiền thiện. Trí dục giúp con người sáng suốt không mê lầm.
- Giáo dục tự do: Đức Phật đề cao tinh thần phản biện, tinh thần phê phán, khuyến khích hội họp, tổ chức hội đoàn
- Giáo dục ứng dụng: Lời dạy của Thế Tôn luôn khế cơ, khế lý, và khế thời. Nói theo ngôn ngữ hiện tại là:thiên thời, địa lợi và nhơn hòa đáp ứng nhu cầu nguyện vọng chúng sanh đã qua  hôm nay và ngày mai. Lý thuyết gắng liền với thực hành. Lý thuyết đó không dùng để lý luận thuần túy mà dùng để ứng dụng đem lại lợi ích cho tự thân và tha nhân.
- Giáo dục bình đẳng: Giáo lý đặt trên nền tảng tinh thần Từ bi và Trí tuệ. Chính vì vậy Phật giáo coi trọng sự bình đẳng “không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn “Chính Thế Tôn không công nhận giai cấp là đã tạo cho mọi người có cơ hội tiếp cận và học hỏi tri thức, đây được xem là cuộc cách mạng lúc bấy giờ.
- Giáo lý duyên khởi: Giáo lý duyên khởi dựa trên nền tảng nguyên lý duyên sanh vô ngã, là tiếng nói đích thực về thế giới và con người vượt lên các phạm trù tư duy hữu ngã, kiến tạo một tri thức ở đó không ẩn chứa vô minh, căm thù, sân hận và tham vọng, các phiền não lậu hoặc bị dập tắt. Cải hóa con ngươi vô minh thành giác ngộ, phàm thành thánh, giải phóng con người ra khỏi tâm thức tối tăm và nô lệ thần thánh. Tự thân hoạch định vận mệnh cho chính mình.
- Bản chất giáo dục là để đạt hạnh phúc: Giáo dục của đạo Phật là dạy con người đem tình thương, lòng vị tha dâng tặng cho tha nhân, khai mở suối nguồn tươi mát cho đời. Giáo dục để con người sống đúng nghĩa, mở cõi lòng hạnh nguyện vị tha, giúp cho đời khỏi ngục tù cố chấp, bảo thủ và điên cuồng trong bạo lực và dục vọng thấp hèn. Thế Tôn dạy các Tỳ kheo hãy du hành hoằng dương chánh pháp, vì an lạc cho quần chúng, vì lòng thương cho đời, Vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người. Chớ có đi hai người một chổ. Mục đích tối thượng của giáo dục Phật học là truyền trao chất liệu mang lại hạnh phúc an lạc cho tất cả chúng sanh. Nhờ có giáo dục con người sẽ chuyển hóa và chấm dứt khổ đau, sống cuộc sống an vui hạnh phúc bây giờ và ở đây.
- Giáo dục ứng xử: Cá nhân có lành mạnh thì xã hội mới an bình. Giáo dục cá nhân có ý thức thực hiện trọn vẹn trách nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận của tự thân với gia đình và xã hội, thể hiện thái độ tình cảm, tâm lý, trách nhiệm mỗi cá nhân trong quan hệ gia đình và xã hội.
Văn hóa ứng xử giúp con người giải thoát tâm, giải phóng con người khỏi áp lực bất công do quan niệm đẳng cấp của xã hội, tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ xã hội, như sự ứng xử giữa vợ và chồng, cha mẹ với con cái, chủ với tớ, thầy với trò, tu sĩ với tín đồ, nhằm điều chỉnh thái độ và hành vi của cá nhân trong mối quan hệ khác nhau. Văn hóa ứng xử lấy sự hoàn thiện nhân cách làm cơ sở, từ hành động đến ngôn ngữ mang lại lợi ích cho tự thân và tha nhân, xây dựng một xã hội an bình và phát triển, tạo mối quan hệ đoàn kết hướng đến một xã hội an ninh trật tự. Văn hóa ứng xử đem lại bình an trong cuộc sống trong đó không có những việc xung đột và tranh chấp. Vì mỗi người biết chế ngự các giác quan và làm chủ các giác quan không bị trần cảnh sai sử và chi phối, là người có đạo đức biết điều phục và chế ngự tâm và là người chiến thắng./.        

                       {]{

GIÁO DỤC TOÀN DIỆN Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét