Thứ Hai, 5 tháng 6, 2017

CHUYỂN NGHIỆP “BÀ TÁM ”

  
Trong ngũ giới, giới thứ 4 là giới khó giữ nhất, dù là tại gia hay xuất gia, không ai là không tránh khỏi lỗi lầm vi phạm giới thứ tư này. Vì giới này nêu ra một từ là “Vọng ngữ” nhưng nó có đến bốn phạm trù nói: Đó là: a/ vọng ngôn, hay vọng ngữ, là lời nói không chân thật. Có nói không, không nói có, phải nói trái, trái nói phải, ngược nói xuôi, xuôi nói ngược, trắng nói đen, đen nói trắng v.v... b/ Ỷ ngữ, hay mỹ ngữ: Là lời nói thêu dệt trau chuốt, nói để lấy lòng người, nhưng bên trong lời nói không như vậy, còn gọi là “sáo ngữ” nói như con sáo nói, nói hay mà không phải vậy, là một cách nói lấy lòng người để mưu cầu một việc gì đó, bên trong thì có ý ám hại hoặc thăm dò, gọi là “ngọt mật chết ruồi”. Một khi thuyết phục được người ta rồi, họ lợi dụng cái sự thuyết phục của lời nói mà họ toan tính một việc khác. Là lời nói nịnh hót người để mưu cầu việc của mình.  c/ Ác khẩu: là lời nói thô tục, cay cú, độc ác, chữi rủa, mắn nhiếc, hăm dọa, dèm chê, châm biếm, v.v...lời nói này, cách nói đối ngược lại với lời nói mỹ ngữ, nhưng nó cũng gây tác hại người nghe vô cùng nguy hại và đau khổ. Chính lời nói này nó đã làm nhiều người chịu không nổi dư luận nên phải quyên sinh tử tự, hoặc đau khổ dằn vặt trong lòng, khóc thầm, ăn không ngôn ngủ không yên cũng vì lời nói ác độc này. để minh chứng cho lời nói này có bài thơ diễn tả cái tác hại của nó như sau:
                  Lời nói không phải là Dao
                  Mà cắt lòng người đau nhói
                  Lời nói không phải là Khói
                  Mà nghe mắt cay cay
                  Lời nói không phải là Mây
                  Mà đưa người ta xa mãi
                  Sao không ngồi nghĩ lại
                  Nói với nhau những lời nhẹ nhàng.
Sự tác hại của lời nói ác độc, đây được ví dụ như Dao, Khói, Mây. Dụ như Dao, nhưng nó tác động nguy hại hơn con Dao, Vì con Dao chỉ đâm một hai người, nhưng lời nói ác tác hại đến cả triệu người, cả một thế hệ lâu dài, nếu mọi người tin lời nói đó là đúng. Ví dụ như người ta nói việc sinh con trai hay con gái, họ quan niệm rằng:”nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô “nhà nào có sinh một con trai gọi là có, nếu sinh mười đứa con gái coi như là không.  Nhà nào sinh được con trai mới là thực sự là con mình, còn sinh con gái không phải là con mình. Vì lớn lên nó theo chồng phục vụ bên chồng, và sinh con đẻ cháu cho giòng họ nhà chồng. Con gái không giữ bát hương chén nước cúng cỏi ông bà nên không phải là con. Tư tưởng trọng nam khinh nữ là một lời nói độc ác đã giết chết biết bao đứa bé gái nhiều thế hệ, từ trong bụng cho đến sinh ra.  Nữ giới từ nhỏ tuổi đến người lớn tuổi phần đông các nước trên thế giới đều có sự phân biệt giữa nam và nữ. Ít có nước nào bình đẳng tuyệt đối  giữa nam và nữ. Ta nhìn lại từ xưa đến nay trên thế giới mấy trăm nước, có mấy người nữ làm vua, làm Tổng thống, làm Chủ tịch. Nặng nề nhất là tưởng  Nho gia của Trung Quốc, tư tưởng này ngày nay không còn phù hợp với thời đại. Nhưng tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn nguyên vẹn. Dẫn đến mất cân bằng giới tính, sinh ra các tệ nạn mua bán người, bắt cóc, mại dâm v.v... Lời nói còn tác hại mạnh hơn khói, khói khiến người cay mắt nhưng không buồn khổ dẫn đến  ăn không ngon ngũ không yên. Lời nói dụ như Mây, nó còn hơn Mây. Mây chỉ bay qua rồi thôi, chứ lời nói làm cho người chia cắt tình cảm, khiến người hết tâm ý nhiệt thành trong công việc, lời nói ác khiến người ta xa cách không muốn gặp mặt, không muốn nhìn nhau, không muốn cùng nhau làm việc, không muốn cùng sống chung nhau một môi trường v.v Lời nói này đưa đến không hòa hợp. Trong kinh luật gọi là phá hòa hợp Tăng, là phá sự hòa hợp của một tập thể tu tập. Là một tội nặng trong năm tội nghịch.
d/  Lưỡng thiệt: Là lời nói hai lưỡi, ở đây nói kia, lại kia nói đây, người ta dụ lời nói: “đòn xóc nhọn hai đầu ”, lời nói hai lưỡi này khiến hai bên nghi kỵ nhau, đưa đến ly tán, đưa đến đấu tranh, đưa đến bạo hành v.v...
Phạm trù rộng rãi và phức tạp của lời nói như thế nên khó giữ, hơn nữa bốn giới: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, rượu bia, cờ bạc phải có đối tượng mới khởi tâm hành động, và nếu có làm cũng không thường xuyên. Còn giới nói dối nó luôn từng giờ từng phút từng giây lúc nào cũng thực hiện được.
  Nguồn gốc danh từ Bà Tám: Theo tác giả An Chi nghiên cứu từ Bà Tám được phát xuất từ ngữ của Trung Quốc gọi là “Bát phù ”., còn gọi là “Trường thiệt phụ “là người đàn bà có cái lưỡi dài, lưỡi dài này khác với tướng lưỡi rộng dài trong kinh A Di Đà. Từ Bát phù này, người ta chỉ dùng một chữ Bát nghĩa là Tám, nên những người nói nhiều, nói dai, nói dốc, nói thị phi được gọi là bà Tám, nữ giới gọi là bà Tám, nam giới gọi là ông Tám, chứ không riêng gì nữ giới mới gọi là bà Tám. Trạng thái của bà Tám thường xuất hiện giữa hai người hoặc nhiều người để bàn luận, để phân tích đánh giá được thua hơn kém về một người thứ ba hay nhóm người thứ ba vắng mặt.
 Môi trường của bà Tám: Thường xuất hiện ở “hàng không ”, hàng không, không phải nơi sân bay hay trên máy bay, mà là nơi tụ tập những chổ ăn không ngồi rồi, như quán cà phê, quán ăn ,quán nhậu v.v Sự xuất hiện của bà Tám ngày xưa khác với ngày nay. Ngày xưa chỉ có trực tiếp chứ không có gián tiếp. Trực tiếp là những người nói chuyện với nhau, cùng nhau ngồi lại một nơi nào đó. Còn gián tiếp là một mình vào pây bút, vào mạng v.v
 Nguyên nhân có sự xuất hiện bà Tám: Có các nguyên nhân như sau:
- Để đề cao giá trị của mình, tăng sự ảnh hưởng của mình lên trên mọi người khác.
- Để xua tan sự buồn chán, bực tức không vừa lòng một đối tượng nào đó, cảm giác ganh tỵ, thấy mình thua thiệt người kia, sanh tâm tị hiềm
- Để muốn hòa nhập vào một nhóm nào đó.
- Để gây sự chú ý của mọi người
- Để giảm bớt sự tức giận, để trả thù người khác không hợp tác với mình v.v...
Hậu quả của bà Tám:
- Thường sinh lo lắng: Vì nói xấu người, người sẽ hại lại mình, người sẽ phản đối lại những lời nói ác, những lời nói vô nghĩa của mình.
- Tình cảm trở nên lạc lẽo, một khi đã bị bà Tám làm chủ thì tình thân nghĩa cử giữa hai người với nhau không như xưa nữa, mà cũng giảm dần.
Các công việc bị cảng trở, vì bị người khác trả thù không mặn mà, khi họ bị mất uy danh bởi bà Tám làm ảnh hưởng đến danh nghĩa và quyền lợi của họ.
- Hiện tại thì ít người quan tâm giúp đỡ, ít người kính trọng, 
- Sự tu tập không thăng tiến, không tinh tấn, không thấy an lạc, không tìm được niềm vui trong cảnh thanh tịnh giải thoát.
- Sau khi thân hoại mạng chung thường sanh nơi đọa xứ.
- Nếu được sanh lại làm người miệng thường hôi thúi, lời nói không ai tin, môi miệng không hoàn hảo. (hàm ết).
Phương pháp khắc phục bà Tám:
- Tập ít nói, hạn chế lời nói
- Tập hạnh hoan hỷ
- Không nhìn thấy lỗi người
- Tin sâu nhân quả
- Chuyên trì niệm Phật
Dùng các phương pháp trên có thể hạn chế lời nói vô ích vô bổ, để đem lại lợi mình lợi người. Người ta nói: “Đa ngôn đa oán” nói nhiều hay bị lỗi lẫm, Cho nên: “im lặng là vàng nói năng là bạc”. Giá trị của vàng gấp trăm lần bạc. Trong kinh: “nói năng như chánh pháp, im lặng như chánh pháp”. nếu ta nói đúng lời, đúng lúc, đúng chổ , đúng đối tượng gọi là lời nói chân chánh, còn là lời nói không chân thật. Người ta nói, trước khi nói phải uốn lưỡi bảy lần, bảy lần là không gian và thời gian: Không gian, Đông, Tây, Nam, Bắc. Thời gian: Quá khứ, hiện tại, và tương lai. Tức là nói đúng thời, đúng chổ, thì mới giảm bớt sự tác hại của lời nói.
           Khi đụng chuyện chớ nên tức khí
           Nhường nhịn nhau một tí thôi mà
           Trọng người, người tất trọng ta
           Mắng người, người dễ gì tha mắng mình
           Người khôn an nhẫn làm thinh
           Không gây thêm nghiệp, hạnh mình thanh cao.

    Gặp nhau, chào nhau bằng câu danh hiệu Phật: A Di Đà Phật, người ta có chữi mình, mắng mình cũng đáp lại A Di Đà Phật. Tức là tôi chúc anh hay chị: Sức khỏe, sống lâu, sáng suốt minh mẫn. Như thế mọi việc sẽ không có tác hại, mà còn lại tăng phước giảm tội cho cả hai bên. Người nghe danh hiệu Phật, sẽ gieo vào tâm thức họ hạt giống Phật, trước sau họ sẽ thành phật. Ý nghĩa của danh hiệu Phật A Di Đà là  Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Công Đức. Vô Lượng Thọ là sống lâu, có sức khỏe mới sống lâu, Vô Lượng Quang là Trí tuệ, Trí tuệ là sáng suốt, minh mẫn thấy được sự lỗi lầm sai trái. Vô Lượng Công đức là có nhiều hạnh lành để làm lợi cho mọi người./.
(Dựa theo bài giảng của Tâm An khóa tu Phật thất 84 tháng 11- Bính Thân - 2016)

CHUYỂN NGHIỆP “BÀ TÁM ” Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét