Trong ngũ giới, giới thứ 4 là giới khó giữ nhất, dù
là tại gia hay xuất gia, không ai là không tránh khỏi lỗi lầm vi phạm giới thứ
tư này. Vì giới này nêu ra một từ là “Vọng ngữ” nhưng nó có đến bốn phạm trù
nói: Đó là: a/ vọng ngôn, hay vọng
ngữ, là lời nói không chân thật. Có nói không, không nói có, phải nói trái,
trái nói phải, ngược nói xuôi, xuôi nói ngược, trắng nói đen, đen nói trắng v.v...
b/ Ỷ ngữ, hay mỹ ngữ: Là lời nói
thêu dệt trau chuốt, nói để lấy lòng người, nhưng bên trong lời nói không như
vậy, còn gọi là “sáo ngữ” nói như con sáo nói, nói hay mà không phải vậy, là
một cách nói lấy lòng người để mưu cầu một việc gì đó, bên trong thì có ý ám
hại hoặc thăm dò, gọi là “ngọt mật chết ruồi”. Một khi thuyết phục được người
ta rồi, họ lợi dụng cái sự thuyết phục của lời nói mà họ toan tính một việc
khác. Là lời nói nịnh hót người để mưu cầu việc của mình. c/ Ác
khẩu: là lời nói thô tục, cay cú, độc ác, chữi rủa, mắn nhiếc, hăm dọa, dèm
chê, châm biếm, v.v...lời nói này, cách nói đối ngược lại với lời nói mỹ ngữ,
nhưng nó cũng gây tác hại người nghe vô cùng nguy hại và đau khổ. Chính lời nói
này nó đã làm nhiều người chịu không nổi dư luận nên phải quyên sinh tử tự,
hoặc đau khổ dằn vặt trong lòng, khóc thầm, ăn không ngôn ngủ không yên cũng vì
lời nói ác độc này. để minh chứng cho lời nói này có bài thơ diễn tả cái tác
hại của nó như sau:
Lời
nói không phải là Dao
Mà
cắt lòng người đau nhói
Lời
nói không phải là Khói
Mà
nghe mắt cay cay
Lời
nói không phải là Mây
Mà
đưa người ta xa mãi
Sao
không ngồi nghĩ lại
Nói
với nhau những lời nhẹ nhàng.
Sự tác hại của lời nói ác độc, đây được ví dụ như
Dao, Khói, Mây. Dụ như Dao, nhưng nó tác động nguy hại hơn con Dao, Vì con Dao
chỉ đâm một hai người, nhưng lời nói ác tác hại đến cả triệu người, cả một thế
hệ lâu dài, nếu mọi người tin lời nói đó là đúng. Ví dụ như người ta nói việc
sinh con trai hay con gái, họ quan niệm rằng:”nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô “nhà nào có sinh một con trai gọi là có, nếu sinh mười đứa con gái coi như
là không. Nhà nào sinh được con trai mới
là thực sự là con mình, còn sinh con gái không phải là con mình. Vì lớn lên nó
theo chồng phục vụ bên chồng, và sinh con đẻ cháu cho giòng họ nhà chồng. Con
gái không giữ bát hương chén nước cúng cỏi ông bà nên không phải là con. Tư tưởng
trọng nam khinh nữ là một lời nói độc ác đã giết chết biết bao đứa bé gái nhiều
thế hệ, từ trong bụng cho đến sinh ra. Nữ
giới từ nhỏ tuổi đến người lớn tuổi phần đông các nước trên thế giới đều có sự
phân biệt giữa nam và nữ. Ít có nước nào bình đẳng tuyệt đối giữa nam và nữ. Ta nhìn lại từ xưa đến nay
trên thế giới mấy trăm nước, có mấy người nữ làm vua, làm Tổng thống, làm Chủ
tịch. Nặng nề nhất là tưởng Nho gia của
Trung Quốc, tư tưởng này ngày nay không còn phù hợp với thời đại. Nhưng tư tưởng
trọng nam khinh nữ vẫn còn nguyên vẹn. Dẫn đến mất cân bằng giới tính, sinh ra
các tệ nạn mua bán người, bắt cóc, mại dâm v.v... Lời nói còn tác hại mạnh hơn
khói, khói khiến người cay mắt nhưng không buồn khổ dẫn đến ăn không ngon ngũ không yên. Lời nói dụ như
Mây, nó còn hơn Mây. Mây chỉ bay qua rồi thôi, chứ lời nói làm cho người chia
cắt tình cảm, khiến người hết tâm ý nhiệt thành trong công việc, lời nói ác
khiến người ta xa cách không muốn gặp mặt, không muốn nhìn nhau, không muốn
cùng nhau làm việc, không muốn cùng sống chung nhau một môi trường v.v Lời nói
này đưa đến không hòa hợp. Trong kinh luật gọi là phá hòa hợp Tăng, là phá sự
hòa hợp của một tập thể tu tập. Là một tội nặng trong năm tội nghịch.
d/ Lưỡng thiệt: Là lời nói hai lưỡi, ở đây
nói kia, lại kia nói đây, người ta dụ lời nói: “đòn xóc nhọn hai đầu ”, lời nói
hai lưỡi này khiến hai bên nghi kỵ nhau, đưa đến ly tán, đưa đến đấu tranh, đưa
đến bạo hành v.v...
Phạm trù rộng rãi và phức tạp của lời nói như thế
nên khó giữ, hơn nữa bốn giới: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, rượu bia, cờ bạc
phải có đối tượng mới khởi tâm hành động, và nếu có làm cũng không thường
xuyên. Còn giới nói dối nó luôn từng giờ từng phút từng giây lúc nào cũng thực
hiện được.
Nguồn gốc danh từ Bà Tám: Theo tác giả An Chi nghiên
cứu từ Bà Tám được phát xuất từ ngữ của Trung Quốc gọi là “Bát phù ”., còn gọi
là “Trường thiệt phụ “là người đàn bà có cái lưỡi dài, lưỡi dài này khác với
tướng lưỡi rộng dài trong kinh A Di Đà. Từ Bát phù này, người ta chỉ dùng một
chữ Bát nghĩa là Tám, nên những người nói nhiều, nói dai, nói dốc, nói thị phi
được gọi là bà Tám, nữ giới gọi là bà Tám, nam giới gọi là ông Tám, chứ không
riêng gì nữ giới mới gọi là bà Tám. Trạng thái của bà Tám thường xuất hiện giữa
hai người hoặc nhiều người để bàn luận, để phân tích đánh giá được thua hơn kém
về một người thứ ba hay nhóm người thứ ba vắng mặt.
Môi trường của bà Tám: Thường xuất hiện ở “hàng
không ”, hàng không, không phải nơi sân bay hay trên máy bay, mà là nơi tụ tập
những chổ ăn không ngồi rồi, như quán cà phê, quán ăn ,quán nhậu v.v Sự xuất
hiện của bà Tám ngày xưa khác với ngày nay. Ngày xưa chỉ có trực tiếp chứ không
có gián tiếp. Trực tiếp là những người nói chuyện với nhau, cùng nhau ngồi lại
một nơi nào đó. Còn gián tiếp là một mình vào pây bút, vào mạng v.v
Nguyên nhân có sự xuất hiện bà Tám: Có các
nguyên nhân như sau:
- Để đề cao giá trị của mình, tăng sự ảnh hưởng của
mình lên trên mọi người khác.
- Để xua tan sự buồn chán, bực tức không vừa lòng
một đối tượng nào đó, cảm giác ganh tỵ, thấy mình thua thiệt người kia, sanh
tâm tị hiềm
- Để muốn hòa nhập vào một nhóm nào đó.
- Để gây sự chú ý của mọi người
- Để giảm bớt sự tức giận, để trả thù người khác
không hợp tác với mình v.v...
Hậu quả của bà Tám:
- Thường sinh lo lắng: Vì nói
xấu người, người sẽ hại lại mình, người sẽ phản đối lại những lời nói ác, những
lời nói vô nghĩa của mình.
- Tình cảm trở nên lạc lẽo, một khi đã bị bà Tám làm
chủ thì tình thân nghĩa cử giữa hai người với nhau không như xưa nữa, mà cũng
giảm dần.
Các công việc bị cảng trở, vì bị người khác trả thù
không mặn mà, khi họ bị mất uy danh bởi bà Tám làm ảnh hưởng đến danh nghĩa và
quyền lợi của họ.
- Hiện tại thì ít người quan tâm giúp đỡ, ít người
kính trọng,
- Sự tu tập không thăng tiến, không tinh tấn, không
thấy an lạc, không tìm được niềm vui trong cảnh thanh tịnh giải thoát.
- Sau khi thân hoại mạng chung thường sanh nơi đọa
xứ.
- Nếu được sanh lại làm người miệng thường hôi thúi,
lời nói không ai tin, môi miệng không hoàn hảo. (hàm ết).
Phương pháp khắc phục bà Tám:
- Tập ít nói, hạn chế lời
nói
- Tập hạnh hoan hỷ
- Không nhìn thấy lỗi người
- Tin sâu nhân quả
- Chuyên trì niệm Phật
Dùng các phương pháp trên có thể hạn chế lời nói vô
ích vô bổ, để đem lại lợi mình lợi người. Người ta nói: “Đa ngôn đa oán” nói nhiều
hay bị lỗi lẫm, Cho nên: “im lặng là vàng nói năng là bạc”. Giá trị của vàng
gấp trăm lần bạc. Trong kinh: “nói năng như chánh pháp, im lặng như chánh pháp”.
nếu ta nói đúng lời, đúng lúc, đúng chổ , đúng đối tượng gọi là lời nói chân
chánh, còn là lời nói không chân thật. Người ta nói, trước khi nói phải uốn
lưỡi bảy lần, bảy lần là không gian và thời gian: Không gian, Đông, Tây, Nam,
Bắc. Thời gian: Quá khứ, hiện tại, và tương lai. Tức là nói đúng thời, đúng
chổ, thì mới giảm bớt sự tác hại của lời nói.
Khi đụng chuyện chớ nên tức
khí
Nhường
nhịn nhau một tí thôi mà
Trọng
người, người tất trọng ta
Mắng
người, người dễ gì tha mắng mình
Người
khôn an nhẫn làm thinh
Không
gây thêm nghiệp, hạnh mình thanh cao.
Gặp
nhau, chào nhau bằng câu danh hiệu Phật: A Di Đà Phật, người ta có chữi mình,
mắng mình cũng đáp lại A Di Đà Phật. Tức là tôi chúc anh hay chị: Sức khỏe,
sống lâu, sáng suốt minh mẫn. Như thế mọi việc sẽ không có tác hại, mà còn lại
tăng phước giảm tội cho cả hai bên. Người nghe danh hiệu Phật, sẽ gieo vào tâm
thức họ hạt giống Phật, trước sau họ sẽ thành phật. Ý nghĩa của danh hiệu Phật
A Di Đà là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang,
Vô Lượng Công Đức. Vô Lượng Thọ là sống lâu, có sức khỏe mới sống lâu, Vô Lượng
Quang là Trí tuệ, Trí tuệ là sáng suốt, minh mẫn thấy được sự lỗi lầm sai trái.
Vô Lượng Công đức là có nhiều hạnh lành để làm lợi cho mọi người./.
(Dựa theo bài giảng của Tâm An khóa tu Phật thất 84 tháng 11- Bính Thân - 2016)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét