Các
nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập Đức Phật như một đấng giáo chủ đã tìm ra
con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại hoặc đề cập đến Ngài
như một đại tư tưởng, nhà cách mạng, xã hội.v... Nhưng ít khi người ta đề cập
đến Ngài như một nhà giáo dục lý tuởng,
và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
Như chúng ta đã biết, giáo dục
làm nên văn hoá, văn minh loài người. Phật giáo qua 25 thế kỷ đã ảnh hưởng, đã
đóng góp nhiều vào văn hoá nhân loại, nếu không muốn nói Phật giáo có thể làm
nên cái gọi là văn hoá Phật giáo cho nhân loại. Sự kiện đóng góp này đủ chứng
tỏ Phật giáo như là một hệ thống giáo dục. Chúng ta hãy tìm hiểu cụ thể:
Giáo dục hiểu
theo nghĩa rộng rãi như là con đường hai
chiều của dạy và học, của con người kể từ lúc sinh ra cho đến khi chết, và có
mặt ở ba môi trường sinh hoạt, gia đình, học đường và xã hội.
Chủ trương của
Phật giáo là giải thoát nghiệp, chuyển đổi từ nghiệp ác sang nghiệp thiện, và
từ nghiệp thiện đến giaỉ thoát. Thế có nghĩa Phật giáo là con đường giáo dục con người đủ hai mặt
nhận thức và hành động từ khi sanh ra cho đến khi chết ở khắp các môi trường
sống.
1- MỤC
TIÊU GIÁO DỤC
Mục tiêu giáo dục của đức phật là luôn
hướng đến hai đối tượng là: Đào tạo con người xã hội và con người chính nó. Con
người xã hội đáp ứng các nhu cầu xã hội
như kinh tế, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, chính trị. Con người chính
nó là con người toàn diện của vật lý, tâm lý, sinh lý, ý chí, tình cảm và trí
tuệ đang trôi chảy. Một hệ thống giáo
dục thiếu một trong hai mục tiêu ấy là một nền giáo dục không hoàn
chỉnh. Thế Tôn đã giáo dục con người đầy đủ về
các mặt ấy. Về mặt xã hội, kinh Thiện Sanh nói lên việc xây dựng 6 mối
tương giao tốt của xã hội. Tương giao giữa cha mẹ, con cái, vợ chồng, thầy trò,
cá nhân, bà con, láng giềng, bạn bè, tu sĩ, và cư sĩ,chủ và tớ
Kinh Tăng Chi,
chương 7 pháp đề cập đến 7 điều làm cho
một quốc gia cường thịnh. Chương 10 pháp nói đến một chính phủ tốt cần thực
hiện tốt 10 điều gọi là “Thập vương tử
pháp”.
Kinh Chuyển Luân
Pháp Vương Sư Tử Hống Tương ương kinh nói rằng: Nghèo đói là nguyên nhân chính
của trộm cắp, hung ác, thù hằn, bạo động và vô luân.
Để cải thiện tình trạng trong xã hội ấy, cần phải cải thiện nền kinh tế, bằng
cách cung cấp các hạt giống và phương tiện canh tác cho nông dân, cung cấp vốn
đầu tư cho thương gia và trả lương thích đáng cho công nhân. Bấy giờ Thế Tôn
dạy các lễ tế đàn cần được thay thế bằng các cuộc đại chẩn thí cho người dân.
Về mặt cá
nhân,Thế Tôn dạy hạnh phúc của đời sống gia đình, mỗi cá nhân cần phải thực
hiện đủ:
- Giỏi tay nghề,
siêng năng, biết điều hành công việc- biết quân bình thu và chi.
- Biết làm ra
của cải hợp pháp bằng sức lao động của chính mình- biết đầu tư.
- Biết làm bạn
với thiện(có giới, tín và huệ)
- Biết quân bình
sức khoẻ và tâm lý
- Biết lo cho
đời sau- Tín, thí, giớí và huệ
- Biết sống
trong hiện tại làm chủ suy tư, không tiếc quá khứ, không mộng tưởng tương lai
2-
TINH THẦN TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN
Về tinh thần
trách nhiệm cá nhân, Thế Tôn không dạy con ngươì phải lệ thuộc vào Ngài, phải
phó thác đời mình cho bất cứ quyền năng nào cả. Ngài dạy: Ngươi phải làm công
việc của ngươi, vì Như Lai chỉ dạy con đường. “Ngươi là nơi nương tựa; ý dẫn
đầu các pháp, ý là chủ, ý tạo tác...Nói về Nghiệp, Tăng chi Trung Bộ kinh chỉ
rõ: Người là tác nhân, chủ nhân của nghiệp, là
kẻ thừa tự của nghiệp”
Nếu không có
tinh thần trách nhiệm cá nhân thì nhân quả của Phật giáo khôngcó gì bàn đến
nữa. Phật giáo không còn lý do để có mặt ở đời. Nếu không có tinh thần trách nhiệm cá nhân thì học đường cũng không thể được thiết lập, giáo
dục và lụật pháp xã hội sẽ không được
thiết lập, xã hội sẽ không có chổ thi hành, cuộc đời sẽ đại loạn.
3- GIÁO DỤC CÁ
NHÂN:
Phương thức giáo
dục hữu hiệu và hợp lý nhất là phương thức giáo dục cá nhân mà không phải là
giáo dục tập thể . Bởi một học viên có các điều kiện tâm lý sinh lý vật lý tình
cảm trí tụê và điều kiện sống khác nhau, nên cần được đón nhận các điều kiện và
phương thức giáo dục khác nhau. Tinh thần
giáo dục cá nhân là tinh thần giáo dục “khế cơ”. Đức Thế Tôn đã thực sự
áp dụng nguyên tắc này từ buổi đầu
giáo hoá. Hình ảnh hồ sen có những cộng
sen vừa ra khỏi bùn, có những cọng sen ở lưng chừng nước, có những cộng sen
vượt ra khỏi mặt nước, tiếp thu được ánh sáng mặt trời và toả ngát hương. Con
người cũng thế có những căn trí bất đồng, có người mau hiểu, có người chậm hiểu, có người nặng về sân, về si, có người
thích tịnh, có người ưa độngv.v... Nhưng tất cả
qua quá trình giáo dục, lần lượt sẽ
như cánh sen vươn ra khỏi nước để tiếp thu giáo lý giải thoát. Thế Tôn
quán sát căn cơ chúng sanh. Như vậy Thé Tôn không ngần ngại lên đường giảng
dạy, giáo hoá tuỳ căn cơ khích lệ khiến cho mọi ngưòi đều được lợi ích an lạc
giải thoát. Thế Tôn đã vận dụng rất
thiện xảo tinh thần “khế cơ” vào cả mặt ngôn
ngữ diễn đạt, cung cách diễn đạt và tâm lý thích ứng với từng đối tượng nghe
pháp, mà chúng ta gặp rất nhiều qua kinh điển của các bộ phái Phật Giáo.
Khi đến với nông
dân, Thế Tôn dùng ngôn ngữ và hình ảnh nhà nông, đến với Sát Đế Lợi, Bà La Môn,
Thế Tôn biểu hiện cung cách và ngôn ngữ của chính họ.
Ngoài việc nói
pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói Pháp đúng thời, đúng chổ khiến cho
tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả. Ý nghĩa này cũng được gồm vào
tinh thần “khế cơ” ấy....
Giới luật cũng
được Thế Tôn thiết lập trên nguyên tắc “khế cơ”, Tăng, Ni , nam, nữ cư sĩ có
giới luật riêng. Các đối tượng tu tập thiền chỉ và thiền quán cũng được dạy
khác nhau, đối tượng căn cơ khác nhau.
4-
TINH THẦN THỰC TIỄN THỰC TẠI
Một tinh thần
giáo dục đặt sắc mà Thế Tôn truyền dạy là tinh thần thiết thực hiện tại, phẩm
“Cây Lau”Tương Ưng Bộ Kinh I dạy:
Không
thương tiếc việc đã qua - Không
mong việc sắp đến,
Sống ngay với hiện tại - Do vậy sắc thù diệu
Do mong
việc sắp tới - Do
tham việc đã qua
Nên kẻ ngu héo mòn - Như lau xanh lìa cành
Kinh A Nan nhất Dạ hiền trung bộ kinh III
ghi :
Quá
khứ không truy tìm - Tương lai
không ước vọng
Quá
khứ đã đoạn tận - Tương lai
chưa đến
Chỉ
có pháp hiện tại - Tuệ quán
chính ở đây
Với kiếp sống
của con người thì chỉ có hiện tại là có thực(tương đối). Sống có ý nghĩa là
sống với thực tại, sống vào hiện tại, hay nói cách khác chỉ có hiện tại là sống.
Sống ngay với hiện tại là tinh thần thiết thực - Than thở, nuối tiếc quá khứ
hay mơ ước tương lai chẳng những để mình rơi vào chỗ phi thực, còn để mình vướn
mắt vào rối loạn tâm lý, khổ đau và đánh mất hiện tại đang là cái hiện sống
động mới mẻ, đầy sáng tạo, đầy nghĩa
sống, và có thể hiện tại là vĩnh cữu nếu mình biết nhiếp phục ý (xoá tan ý niệm
về thời gian) .
Nếu không biết
chấp nhận hiện tại như nó đang là để vận dụng hiệu quả khả năng và trí tuệ của
mình đến an lạc hạnh phúc và giải thoát, thì Thế Tôn đã dạy, dung sắc của mình
sẽ khô héo nhanh chóng như lau xanh lìa cành, có lẽ hạnh phúc đời mình cũng khô
héo như thế.
Phật dạy: “Có
người có thể không bị bệnh về thể xác trong một năm hay có thể đến cả 100 năm,
nhưng thật hiếm có người không bị bệnh về tinh thần dù chỉ trong một phút”.
Những tâm lý được coi là bệnh của tinh thần gồm có 5 triền cái (tham lam, sân
hận, hôn trầm, trạo cử, hối hận, hoài nghi, do dự) do 5 loại tâm lý này có mặt
nó sẽ trói buộc và ngăn che tâm lý con người. Loại trừ nó thì tinh thần sẽ sáng
tỏ thanh tịnh và an lạc, như mặt trăng thoát khỏi mây mù.
Nếu đi sâu vào
giáo dục tâm lý hiện đại, nhất là ngành tâm lý trị liệu, chúng ta sẽ bắt gặp
nhiều kết quả này. Phần lớn các rối loạn, sầu muộn của con người đều do tư duy
của con người gây ra, nhất là những tư duy về quá khứ không thiết thực, về
những tương lai huyền ảo. Có những kết quả thống kê của giáo dục kết luận rằng
có thể 90% cuộc sống mình bị đánh mất bởi các tư duy và mộng tưởng sai lầm ấy.
Thật là dễ hiểu,
những sự kiện bất như ý xảy đến với mình gây phiền muộn cho mình thì ít mà tư
duy của mình về các sự kiện ấy quấy rầy phiền hà mình thì nhiều. Vả lại, nghĩ
nhiều về quá khứ và tương lai không thiết thực chỉ đánh mất thời gian và năng
lượng đáng lẽ được dùng vào các việc đem lại lợi ích và an vui cho mình và mọi
người.
Như thế hiện tại
và tại đây như là hòn đảo an toàn mà Thế Tôn đã chỉ cho con người nương tựa để
khỏi rơi chìm vào trong biển phiền não của vọng tưởng. Và kể từ đó có thể đi
vào nghĩa cuộc sống hạnh phúc mà 1000 năm con người đi tìm kiếm.
Sau khi trở về
với hiện tại, con người phải biết làm chủ tư duy và dục vọng của mình, muốn hay
không muốn những gì, tư duy hay không tư duy những gì để được lợi ích thiết
thực.
Trong kinh Cù La
(Trung bộ kinh II) Malun Kyaputta đặt ra
10 câu hỏi siêu hình để hỏi Thế Tôn: “Thế Tôn thường hay vô thường?
Như Lai có tồn tại sau khi chết v.v...Thế Tôn đã im lặng không trả lời. Ngài
nói cho Malun Kyaputta nghe câu chuyện như một
người bị bắn bởi mũi tên độc, vấn đề cấp thiết nhất là phải giải phẩu độc ngay
chứ không phải vấn đề là tìm cho ra ngọn ngành mũi tên và người bắn mũi tên
trước khi chịu giải phẫu.
Cũng thế, vấn đề cấp tiết của con người là nhổ mũi tên “đau khổ” chứ không phải đi tìm những câu trả lời
cho các vấn đề siêu hình không thiết thực.
Một lần ở
Kasambi, Thế Tôn dạy các thầy Tỳ Kheo: Những gì
Như Lai biết ví như rừng lá Simsapa, còn những gì Như Lai giảng dạy thì ít như
nắm lá trong tay. Nhưng ở đây là những phương thức trừ khổ, đây là tính chất
thực tiễn, thực tế rất thiết thực hiện tại của những lời giảng dạy của Thế Tôn.
Ở các kinh khác,
ý nghĩa thiết thực hiện tại còn được Thế Tôn cắt nghĩa, quan sát tự thân, tự
tâm để thấy rõ tham, sân, si để đoạn trừ là thiết thực hiện tại.
Giảng dạy về
hạnh phúc đời sống gia đình như đã trình bày, là tính chất rất thực tế của tinh
thần giáo dục. Thế Tôn đã không hề chỉ
cho hàng đệ tử đi vào sự cầu
nguyện tế lễ trên đường tìm kiếm hạnh phúc. Ngài dạy tế đàn có ý nghĩa là tế
đàn bố thí giúp đỡ tha nhân và tế đàn có nghĩa nhất là sự tu tập giải thoát của
chính tự thân.
Tinh thần thực
tiễn thực tế là tinh thần giáo dục nổi bậc của tâm lý giáo dục hiện đại, qua
tinh thần thực tiễn ấy, Phật giáo nổi bậc lên sắc thái rất là giáo dục.
5
- TINH THẦN PHÊ PHÁN:
Một tinh thần
nổi bậc khác rất “khoa học” đã làm ngạc nhiên các nhà nghiên cứu tôn
giáo là tinh thần phê phán căn cứ vào thể nghiệm của chính tự thân giữa cuộc
sống trôi chảy này. Khi khuyên bảo những người Kalama đang hoang mang nghi ngờ
trước lời tuyên bố của ngoại đạo, chỉ có giáo lý của mình là đúng số 1, Thế Tôn
dạy “Này các Kalama, đừng để bị dẫn dắt bởi những báo cáo, hay bởi truyền
thống, hay bởi tin đồn. Đừng để bị dẫn dắt bởi thẩm quyền kinh điển, hay bởi lý
luận suông, hay bởi suy lý, hay bởi sự xét đoán bề ngoài, hay bởi thích thú
trong những lý luận, hay bởi những điều “tuồng như”có thể xảy ra, hay bởi ý
nghĩ đây là bậc đạo sư của chúng ta. Nhưng này các Kalama, khi nào các người tự
mình biết chắc chắn rằng những việc ấy là thiện là tốt, hãy chấp nhận và theo
chúng”.
Thế Tôn dạy các
đệ tử xem xét ngay cả Thế Tôn, để thấy rõ chân giá trị của Ngài.
Tinh thần phê
phán đó luôn luôn gắn liền với thực tế thực tại, rất khách quan, rất hiểu biết,
không để cho nhận thức con người chịu n”lệ dưới bất cứ một sức mạnh quyền năng
nào. Hiện nay, tinh thần phê phán làm chuẩn cho các tinh thần đại học.
6 - TINH THẦN HƯỚNG DẪN:
Thế Tôn xác nhận
Thế Tôn chỉ làm người chỉ đường, còn mình phải làm công việc của chính mình.
Kinh Niết Bàn chép vào thời điểm Thế Tôn sắp từ giả cuộc đời, Thế Tôn từ chối vai trò lãnh đạo tăng chúng khi
tôn giả A-Nan xin Thế Tôn cho lời di
giáo của bậc lãnh Đạo, và Tôn giả băn khoăn rằng sau khi Thế Tôn nhập diệt,
Tăng chúng sẽ không có ai lãnh đạo. Thế Tôn dạy: “Y tự pháp, pháp lãnh đạo”.
Pháp ở đây là con đường sống vào an lạc giải thoát. Trọn 45 năm giáo hoá, Thế
Tôn luôn luôn là người chỉ đường mà không bao giờ ra lệnh hoặc ép buộc ai tuân
phục Ngài.
Như thế, chính
Thế Tôn như một ông vua thầy thuốc xem bệnh chúng sanh và cho thuốc. Đấy cũng
chỉ là tinh thần chỉ đường. Thế Tôn đề cao phương pháp giáo hoá thông qua thân
giáo và khẩu giáo bằng quan sát và phân tích thực tế. Mục đích việc giảng dạy của Ngài là giúp người nghe
tự mình nhận ra con đường và tự mình thực hiện con đường.
7- TINH THẦN KHÍCH LỆ:
Nikaya và Agama
thường ghi lại “Thế Tôn đã thuyết pháp đã khích lệ, làm cho mọi người đều được
lợi ích, cho đến các bậc Thánh hữu học vẫn còn cần được Thế Tôn khích lệ”.
Các phẩm kinh
“Dược Thảo Dụ”, “Thọ ký”, “Phổ Hiền”của
kinh Pháp Hoa đều mang tinh thần khích lệ ấy của Thế Tôn.
Đến giờ phút
cuối cùng của cuộc đời Ngài, Thế Tôn còn
không quên khích lệ chư tăng rằng: “Các pháp hữu vi là v”thường, hãy tinh tấn
lên, chớ có phóng dật”. Và khích lệ vị thị giả thân quý của Ngài: “Này A-Nan,
chớ có sầu muộn, không bao lâu nữa ngươi sẽ chứng đắc những gì chưa chứng đắc”.
Này các thầy Tỳ Kheo phải ý thức toàn bộ cuộc đời đều chuyển biến v”thường, có
hợp tất có tan, đừng lo buồn gì cả, tướng trạng của thế gian là vậy. Cho nên
các thầy phải nỗ lực tinh tấn sớm cầu giải thoát, dùng ánh sáng trí tuệ diệt
trừ hắc ám v”minh, thế gian quả thật mong manh không một thứ gì bền chắc. Ta
nay được diệt độ thì cũng như trừ được cơn bịnh ngặt nghèo nguy hiểm. Đây là
xác thân nên bỏ, là vật tội ác, giả gọi là thân, nó chìm đắm trong biển lớn
sanh già bệnh chết, có kẻ trí nào trừ được nó như giết được bọn giặc cướp mà
chẳng vui mừng sao. Này các Tỳ Kheo, các ông thường phải nhất tâm siêng cầu đạo
giải thoát, tất cả thế gian dầu là pháp biến động hay pháp bất động đều là
trạng thái bất an và tan rã. Thôi các thầy hãy yên lặng, không nên nói nữa, thì
giờ sắp hết, ta sắp diệt độ, trên đây là những lời giáo huấn của ta.
8- TINH
THẦN TỰ TÍN TỰ CHỦ:
Khích lệ là
chuẩn bị để xây dựng tinh thần tự tín và tự chủ của hàng đệ tử. Bên cạnh trình
bày giáo lý thật minh bạch về khổ (khổ tập, khổ tập diệt) và khổ tập diệt
đạo,Thế Tôn xác nhận rằng bằng nỗ lực riêng của mình con người có thể thực hiện
được giải thoát ngay trong đời này. Chỉ cho con người trở về nương tựa chính
mình là dạy con người trở về với tự tín.
Lòng tự tín
không thể thiếu được đối với người tu giải thoát. Nó cũng không thể thiếu đối
với người đời, không tin người khác thì mình có thể sống, nhưng không tin ở
mình thì thật là khó sống, hoặc giả có thể sống thì cũng đã đánh mất nghĩa
sống.
Trên lộ trình tu
tập chuyển đổi tâm lý, Thế Tôn đã dạy tín là khởi đầu cho hỷ lạc kinh an ...Sự
kiện Thế Tôn đã ra đời và tu tập cho đến lúc thành đạo là sự kiện thiết lập tự
tín của con người đang ở giữa vùng sinh tử mờ mịt bao la.
Ngoài những lời
dạy khích lệ trực tiếp với các đệ tử, Thế Tôn còn vận dụng các hình thức khích
lệ gián tiếp như các trường hợp sau. Ngài tuyên bố sự chứng đắc chánh trí của
một số đệ tử Sa di nhỏ tuổi, điển hình là trường hợp của đệ tử Tôn Giả Xá Lợi Phất và đệ tử của Tôn giả A-Nậu Lâu
Đà. Qua một số đệ tử nhập đạo khi tuổi đã già, một số các ngoại đạo đầu Phật,
một số trường hợp các Ni, điển hình như trường hợp Tôn giả Ni Pata Cara,(Liên
Hoa Sắc) người đã chịu khổ đau ê chề trong cuộc
sống đến tuyệt vọng.
Việc chọn Tôn
giả Xá Lợi Phất là “tướng quân trong chánh pháp”, Tôn giả Mục Kiền Liên là vị
đệ tử thứ hai của Thế Tôn và Tôn giả Ưu Ba Ly chủ trì về luật tạng cũng nói lên
một ý nghĩa khích lệ nào đó, ngoài thực chất giá trị của các Tôn giả này. Đây
là niềm tin và khích lệ mà Thế Tôn dành cho chúng Tăng rằng: Giác ngộ không hẳn
liên hệ đến thời gian tu hành, tuổi đời hay giai cấp xã hội. Ai cũng có thể đắc
tuệ giác tối thượng, tuỳ theo nỗ lực tu tập của mình.
Trường hợp Thế
Tôn độ Tôn giả Nan- Đà là một trường hợp điển hình khác nói lên tác dụng của
tâm lý khích lệ của Thế Tôn.
Tôn giả Nan Đà
vốn mê nhan sắc của người vợ mới cưới nên không tu hành được. Thế Tôn dùng
phương tiện vận dụng thần thông đưa Nan Đà xuống hoả ngục, rồi lên thăm cõi
trời Tam Thập Tam Thiên. Tại nơi đây các tiên nữ diễm lệ hứa chờ đón Tôn giả
Nan Đà cùng chung sống nếu Tôn giả siêng năng tu hành. Trở về trần gian Tôn giả
Nan Đà không còn nhớ vợ nữa, chỉ nhớ những tiên nữ và nổ lực tu tập, sau đó đắc
thánh quả. Tuỳ theo tâm lý cá nhân mà Thế Tôn khích lệ.
Do vậy các kinh
Bắc tạng, theo truyền thống ấy thường hết sức ca ngợi, tán thán khích lệ người
thọ trì, đọc tụng, biên chép và giải nói kinh điển. Đây là hình thức xây dựng
tự tín cho hành giả trong bước đầu giải thoát.
Kinh Kim Cương
và kinh Pháp Hoa có thể điển hình cho tinh thần khích lệ tự tín ấy. Kinh Kim
Cương có đến 14 lần Thế Tôn tán thán công đức thọ trì đọc tụng, giải nói.
Qua lĩnh vực
giáo dục tự tín là một đức tính mà phương pháp giáo dục có trách nhiệm xây dựng
cho con người. Bởi thiếu tự tín thì sẽ thiếu tự chủ sinh ra ỷ lại, không vận
dụng hiệu quả khả năng của tự thân để giải quyết và xây dựng cá nhân.
Tinh thần giáo
dục khích lệ và tự tin này đã được Thế Tôn áp dụng trong suốt 49 năm giáo hoá.
Cách đây 25 thế kỷ mãi đến ngày nay nó vẫn còn giá trị cho cả đời lẫn đạo. Một
xã hội, một quốc gia hùng mạnh mà thiếu phương pháp giáo dục khích lệ và tự tin
thì khó có một xã hội, một quốc gia hùng cường và thịnh vượng được.
9
- TINH THẦN ĐỘC LẬP TRỪ N”LỆ:
Phật giáo dạy
con người đi vào giải thoát có nghĩa là đi ra khỏi mọi sự trói
buộc, mọi ách nô lệ. Nô lệ
lớn nhất của hiện tượng giới là nô lệ
chính dục vọng của mình. Gốc của dục vọng chính là vô minh.
Đó là con đường Bát chánh dẫn đến vô tham,
vô sân, vô si,
thoát ly mọi khổ ách. Thực hiện con đường này là thực hiện từng bước tự tri, tự
chủ, hay làm chủ lấy mình.Tiếp thu tinh thần vô tham
thì sẽ tự dập tắt hiện tượng tham nhũng của xã hội hay ít nhất không tạo điều
kiện thuận lợi cho tham nhũng phát khởi sanh. Vô sân
thì sẽ dập tắt được những hiện tượng nổi loạn, tranh chấp gây mất trật tự trong
xã hội. Vô si sẽ giúp mở rộng con đường đi vào trí
tuệ, con đường sáng tạo, những nhân tố của văn hoá lành mạnh và văn minh nhân
loại.
10-
GIÁO DỤC CON NGƯỜI TOÀN DIỆN:
Một nền giáo dục
không chỉ dạy những kiến thức chuyên môn để một chiều đáp ứng các mục tiêu xã
hội thì không phải giáo dục toàn diện.
Một nền giáo dục
chỉ cung cấp kiến thức, rèn luyện sức khoẻ và một số vấn đề luân lý đạo đức đầy
ước lệ cũng không phải toàn diện.
Một nền giáo dục
trao truyền kiến thức thể dục, đạo đức, mỹ dục, sinh lý và lao động cũng chưa
nói lên được ý nghĩa toàn diện. Vấn đề đường hướng giáo dục này trở nên toàn
diện hay không là do cái nhìn nhất quán và toàn diện về con người hay không.
Đặt vấn đề như
thế là đặt vấn đề mẫu người gáo dục. Con người là gì cần được xác định trước
khi quyết định nội dung phải dạy nó những gì và dạy như thế nào.
Các đường hướng
giáo dục tiên tiến vẫn thường bất ổn trong việc xây dựng mẫu người này. Phật
giáo đặc biệt nổi bật ở trí tuệ nhìn
thấy con người và sự vật như thật, nên hy vọng sẽ đề bạt được một mẫu người khả
dĩ lý tưởng.
Phật dạy rằng:
Thế giới này do duyên sinh, con người cũng do duyên sinh. Thế giới và con người có cùng chung tương quan
bất nhị, cá nhân gia đình và xã hội đều ở trong sự tương quan bất nhị đó.
Thế Tôn định
nghĩa cái gọi là con người chỉ là tập hợp của 5 uẩn (Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức) . 5 uẩn ấy cũng chính là thế giới. Theo lời dạy của Thế
Tôn giáo dục con người cũng chính là giáo dục toàn diện 5 uẩn ấy.
Về sắc uẩn, chỉ
rõ về con người và thế giới vật lý, sự sinh thành, tồn tại và hoại diệt của nó.
Tương tự đối với 4 uẩn còn lại. 5 uẩn vốn trống không, không có tự ngã, chúng
là hiện hữu của tương duyên nên vô thường
và khổ đau. Tuy nhiên theo trí tuệ Phật giáo, 5 uẩn không phải là gốc của khổ
đau.Trọng điểm của giáo dục là chỉ
rõ lòng tham ái, chấp thủ là gốc
của khổ đau mà không phải là thế giới vật lý thường xuyên trôi chảy, và đồng
thời chỉ rõ gốc của an lạc, hạnh phúc thực sự là trí tuệ hay trí tuệ giải
thoát. Từ đây nhà giáo dục cần xác định một số nội dung của giáo dục. Trí huệ
mà không phải kiến thức. Kiến thức chỉ là sản phẩm của tư duy ngã tính, một
nhân tố của con người mà không phải là tư duy tòan diện. Nó không nói lên thực
tại vô ngã và hạnh phúc chân thực vô ngã.
Chỉ có khi trí tuệ (Chánh kiến và chánh tư duy) có mặt thì con người toàn diện
mới có mặt. Giáo dục toàn diện là giáo dục vừa cung cấp kiến thức, vừa tạo điều
kiện cho trí tuệ ấy sinh khởi. Một hệ thống giáo dục mà không nhận ra tầm quan
trọng của giáo dục thẩm mỹ, tình cảm và sinh lý thì còn lệch lạc, không toàn
diện. Vấn đề chủ yếu của giáo dục là giúp con người biết nhìn và biết sống như
thế nào để đem lại hạnh phúc cho mình và cho xã hội.
11
- GIÁO DỤC ĐÁNH THỨC
Thế Tôn chỉ là
người chỉ đường, con người có thể thực hiện giải thoát bằng nỗ lực riêng của
mình. Như thế giáo dục Phật giáo là đường hướng giáo dục đánh thức. Đạo đức là
con đường giúp con người đánh thức trí tuệ giải thoát vốn có sẵn trong mình.
Dạy đạo có nghĩa là trao truyền phương pháp, soi sáng tư duy để khơi dậy nguồn
sáng trong con người. Chỉ đường, vạch mở những gì đang che mờ tâm thức.
Một nền giáo dục
như thế, hoàn toàn không đặt nặng ký ức, tín điều cũng không đặt kiến thức, bởi
mục đích nhắm đến là giúp người học đạo đi ra khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não đang
đè nặng tâm tư họ. Mặt khác giúp họ thích ứng với hướng phát triển xã hội.
Học đường tiên
tiến ngày nay đào tạo con người đáp ứng hai mục tiêu, con người chính nó và con
người xã hội. Nhưng chiều hướng phát triển có thể nhấn mạnh con người chính nó
để có thể tận gốc giải quyết các khủng hoảng tâm lý và xã hội.
Chúng ta có thể
chủ quan cho rằng Phật giáo có thể ổn định hướng phát triển cho một nên giáo
dục nhân bản và toàn diện. Với tinh thần khoa
học và kỹ thuật, giáo dục tiên tiến với tinh thần chỉ đạo giáo dục của
Phật giáo, học đường có thể, thể thực hiện tốt hai mục tiêu chính của giáo dục
ấy.
12.
GIÁO DỤC THIỀN ĐỊNH
Giáo dục thiền
định là giáo dục đặc biệt của Phật giáo, chưa thật sự được vận dụng vào trong
bất cứ một hệ thống giáo dục hiện đại
nào.
Phương pháp giáo
dục thiền định rất giản dị, rất người nhưng đưa đến kết quả rất lớn, kết qủa
tốt đẹp về mặt tâm lý, tình cảm, hoàn bị, tinh thần giáo dục tự trị, tự chủ, tụ
tin, trách nhiệm cá nhân, đồng thời mở rộng
hướng sáng tạo nhân tố của văn hoá và văn minh.
Về tình cảm,
thiền định đưa con người vào phấn khởi, hoan hoan, hỷ lạc, an tịnh, buông xả
vào tình thương v.v..
Về tâm lý, thiền
định là quá trình chuyển đổi tâm lý, từ tâm lý thụ động sang tích cực, từ tham
sân si qua vô tham, vô sân,
vô si, từ thất niệm qua tỉnh giác v.v...
Về tâm lý, thiền
là quá trình đưa vào các cảm thọ lạc, hạnh phúc và khắc phục các cảm thọ khổ
của thân và tâm. Trong cảm thọ này của thiền định, hành giả hầu như bắt gặp các
đối tượng là hạnh phúc mà con người đang mãi đi tìm.
Thiền định còn
giáo dục tốt ký ức, khả năng tập trung, kết quả gây nên giúp con người tiếp thu
kiến thức tốt.
Các điểm tâm lý
tự chủ, độc lập cảnh tỉnh và là khả năng tập trung là các điều kiện tốt chuẩn
bị cho các nguồn sáng tạo phát khởi. Tự thân các cảnh giới thiền đã là kết quả
sáng tạo của tâm. Trạng thái tâm lý ổn định, an toàn của Thiền, không bị vướn
mắc nặng vào tư duy. Thiền định giúp con người loại bỏ các tâm lý mỏi mệt, thụ
động, chán nản, sầu muộn, dao động. Đây là đối tượng giáo dục mà ngành giáo dục
cần thực hiện để hỗ trợ cho việc dạy học có kết quả tốt.
Ngày nay, Nhật
Bản đã vận dụng Thiền vào các lĩnh vực hội hoạ, âm nhạc, thi ca, võ thuật, trà
đạo v.v... Thiền như là sắc thái của văn
hoá Phật giáo trong thời cận đại và hiện
đại.
Ở Việt Nam ta,
Thiền đã ảnh hưởng sâu đậm vào văn hoá trong suốt 400 năm dưới triều đại nhà Lý
và nhà Trần đã tạo nên một giai đoạn lịch sử hào hùng vàng son cho dân tộc Việt
Nam, đất nước Việt Nam. Mạnh về quốc phòng, sáng tỏ về văn hoá, kinh tế ổn
định, dân tộc đoàn kết. Nhờ ba sắc thái ấy mà triều Lý, Bắc đánh Tống, Nam bình
chiêm, Triều Trần thì trong vòng 4 năm mà hai lần đánh thắng quân Nguyên, là
đạo quân đánh bại cả Châu Âu. Lịch sử Việt Nam đã ghi lại những thành công oai
hùng của lịch sử trong các giai đoạn này là kết quả chịu ảnh hưởng của Thiền
Phật giáo.
Trong tập bia ký
của Vua A dục đã để lại cho thế hệ
ta một sự ngạc nhiên kỳ thú. Vua là một nhà chinh
phục lừng danh lại gác kiếm mà dùng pháp của Phật để giáo dục nhân dân. Giáo
dục mà nhà vua giảng dạy cho Ấn Độ bấy giờ là thiền định, nguyên văn bi ký ghi:
“Tiến bộ của luật pháp trong loài người chỉ có hai phần do các luât lệ và do thiền định. Nhưng các luật lệ thì có
ích lợi ít, thiền định thì có lợi ích nhiều hơn. Nhà vua cho rằng, thiền định
còn hữu hiệu hơn là giới luật và pháp luật.
Đạo đế mà Thế
Tôn dạy, nội dung như là con đường thực hiện thiền định để đi vào Tâm và Tuệ
giải thoát. Lời di huấn sau cùng của Thế Tôn là “Đây là gốc cây, đây là căn nhà
trống, hãy nổ lực thiền định, chớ để hối tiếc về sau.
Giáo dục thiền
định như thế có dấu hiệu sẽ là nhân tố cho một nền giáo dục nhân bản và toàn
diện.
13- TINH THẦN GIÁO DỤC TRUNG ĐẠO
Ý nghĩa trung
đạo của hành động là lánh xa hai cực đoan, hưởng thụ dục lạc và khổ hạnh ép
xác, lười biếng và nổ lực quá mức.
Khi dạy về tinh
tấn, Thế Tôn cho rằng: Tinh tấn như là một đức tính chủ yếu để hoàn thành các
đức tính khác. Tuy nhiên, phải hành động theo đúng nghĩa trung đạo, tinh tấn
quá mức, tâm lý sẽ rơi vào trạo cử, tinh tấn không đúng mức(yếu) thì tâm lý sẽ
rơi vào tâm thụ động. Thế Tôn đã để lại bài học lịch sử của kinh nghiệm tự thân
của Ngài về tinh thần giáo dục trung đạo ấy, sau khi từ bỏ 6 năm ép xác khổ
hạnh, Thế Tôn đã đi vào con đường trầm tư của Thiền định và đã đi vào giải
thoát toàn triệt.
Giáo lý chỉ đạo
sống thể hiện trung đạo là Bát Chánh Đạo. Thấy đúng, suy nghĩ đúng, lời nói
đúng, sinh hoạt đúng, hành động đúng, nhớ nghĩ đúng, nổ lực đúng, và năng lực
tập trung đúng. Đấy là giáo lý chỉ đường vào mục tiêu sau cùng của giáo dục an
lạc, hạnh phúc, giải thoát ngay tại đây và bây giờ.
Giáo dục thiền
định xuất hiện như là chỉ dẫn con đường sống thể hiện hoà điệu giữa con tim và
thiên nhiên v. v..
Như vậy giáo dục
trung đạo sẽ đưa đến hạnh phúc trong sự hoà điệu về các mặt tâm lý vật lý, sinh
lý, tình cảm và tư duy. Nơi đây chúng ta
thấy giáo dục Trung Đạo như là thực tại như thực .
14- GIÁO DỤC TINH THẦN KHÔNG CHẤP THỦ:
Tinh thần “vô
chấp thủ” rất là quen thuộc với hầu hết mọi Phật tử Nam Tông và Bắc Tông. Ai
cũng hiểu rằng do chấp thủ mà tham ác phát sanh, sân hận sinh, khổ sinh. Ngay
cả sự chấp thủ giáo lý giải thoát. Cũng chỉ đem lại ràng buộc khổ đau.
Thế Tôn dạy:
“Giáo lý ta như chiếc bè để qua sông chứ không phải để ôm giữ”. Các nơi khác
giáo lý Bắc Tạng thường nói: “Nhất thiết Tu đa la như tiêu nguyệt chỉ”.
Thành kiến cố
chấp là biểu hiện của chấp thủ, chúng ngăn cản cảm thông tiến bộ và giải
thoát. Hạnh phúc tuyệt đối hay Niết Bàn,
theo lời dạy của Thế Tôn là loại bỏ hoàn toàn chấp thủ. Hạnh phúc tương đối của
con người trong hiện tại và tương lai tuỳ thuộc vào mức độ loại bỏ chấp thủ ấy,
như những gì chứa đựng trong pháp bố thí. Tinh thần vô chấp
ấy chẳng những đem lại an lạc cho cá nhân mà còn đem lại an lạc cho tha nhân
tập thể.
Nhờ ảnh hưởng
tinh thần giáo dục vô chấp này mà đời Lý, Trần thực hiện được
sự đoàn kết keo sơn của dân tộc, thống nhất tam giáo. Nhờ vô chấp,
mà Trần Quang Khải đã sánh vai với Trần Hưng Đạo bỏ mối thù nhà hẹp hòi để lo
việc nước. Ở đâu có vô chấp, ở đó có cảm thông đoàn kết và
thương yêu. Đây là một tinh thần giáo dục nhân dân được vận dụng vào mục tiêu
đoàn kết dân tộc.
15-
TINH THẦN TUỲ DUYÊN BẤT BIẾN:
Đây là tinh thần
xử sự, hành động uyển chuyển, thích nghi với hoàn cảnh sống tuỳ thời, tuỳ chỗ,
tuỳ người (tuỳ duyên) miễn là sự uyển chuyển linh động ấy mang lại điều tốt đẹp
cho mình và người (Bất biến). Nói khác đi, hình thức và phương tiện hành động
có thể uyển chuyển nhưng dụng ý và kết quả của hành động phải là Thiện, đúng
pháp. Thái độ sống này luôn luôn không rời khỏi lòng Từ bi, lòng nhân và luôn
luôn được soi sáng bởi trí tuệ hay chánh kiến. Nắm được hành động này là nắm
được cái trục quay của sự sống. Chiếc áo không quan trọng mà quan trọng ở tấm
lòng, cái tâm của con người giữ lòng mình hợp đạo là ý nghĩa bất biến, linh
động hoà mình vào cuộc sống là ý nghĩa tuỳ duyên.
Trong văn học
Trung Quốc, tư tưởng của Khổng Tử, Lão
Tử cũng nói lên cái tinh thần xử sự tuỳ duyên này, như đoạn: “Quân tử tố kỳ vị
như hành, bất nguyện hồ kỳ ngoại, Tố phú quý hành hồ phú quý, Tố bần tiện hành
hồ bần tiện, Tố di dịch hành hồ di dịch, Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn, Quân tử
v”nhập nhi bất tự đắc yên”. Đạo xử thế của người quân Tử, trung với vua, kính
thờ cha mẹ. Làm bổn phận người quân tử thì: “Quân tử thì theo cái địa vị mà
hành động, không muốn điều gì ở ngoài cái cảnh ngộ, gặp cảnh ngộ phú quý thì
ứng xử theo phú quý, bần tiện thì hành động theo cảnh ngộ mọi rợ, lâm nạn thì
hành động theo cảnh ngộ hoạn nạn. Người quân tử không ở vào cảnh ngộ nào, mà tự
mình không có cái thú vậy”.
Ở hành động tinh
thần tuỳ duyên phá vỡ tính câu nệ cố chấp, và tinh thần này được đảm bảo giá
trị nhờ động cơ của tâm lý hành động và nhờ chủ đích mà hành động nhắm đến.
Tinh thần giáo
dục tuỳ duyên bất biến, là tinh thần tích cực, giúp con người thời đại có nhiều
biến đổi nhanh chóng, có điều kiện rộng rãi để hành động thích nghi với những
nhân duyên mới, khai thông được nhiều bế tắt do chủ nghĩa đem lại.
Phật giáo có
nghĩa tương đương với tinh thần tuỳ duyên bất biến là: “Phương tiện thiện
xảo”mà Thế Tôn đã vận dụng để dẫn dắt các đệ tử đi dần vào giải thoát. Tinh
thần phương tiện lại được làm sống lại ở kinh Pháp Hoa phẩm phương tiện.
16-
TINH THẦN LỤC HOÀ VÀ TỨ NHIẾP PHÁP:
Hoà là phương
pháp tu nhân xử thế, là phương pháp chỉ đạo đời sống tập thể.
Thế Tôn dạy
nguyên tắc Lục Hoà- kinh Xà Di Thôn, chỉ rõ nguyên tắc chung của chư Tăng gồm
có sáu điểm.
1/ Thân
hoà đồng trú: Có sự hoà hợp, hợp
lý về chỗ làm ăn, chỗ ở, tức khéo an trú thân nghiệp.
2/ Khẩu
hoà v”tránh: Lời nói hoà hợp không tranh cải, khéo an trú khẩu nghiệp.
3/ Giới
hoà đồng tu: Cùng nhau giữ gìn một giới luật chung, an trú giới, giữ
thanh tịnh giới.
4/ Lợi
hoà đồng quân: Cùng san sẽ các
lợi dưỡng.
5/ Ý hoà
đồng duyệt: An trú ý nghiệp, hoà
hợp thống nhất.
6/ Kiến
hoà đồng giải: Cùng với các vị đồng tu nuôi dưỡng những tri kiến thánh
thiện, đưa đến xuất ly. Thế Tôn dạy Tôn giả A-Nan, sáu pháp hoà này sẽ đưa đến
đoàn tụ không tranh luận, hoà hợp, đồng nhất và đưa đến cho con người an lạc và
hạnh phúc lâu dài.
Nếu ứng dụng
nguyên tắc “lục hoà”vào sinh hoạt trong các nhóm hay tập thể, chúng ta thấy
thích ứng với các nguyên tắc tâm lý mà các nhà giáo dục tâm lý hiện đại giáo
dục cho các sinh hoạt tập thể.
Bài
học thứ 1:
Thân hoà đồng trú, nếu áp dụng vào
một tập thể thì sẽ giúp cho mọi người đoàn kết thân mật, gần gũi nhau hơn,
không phân rẽ thành những nhóm do xấu đẹp sang hèn khác nhau.
Bài
học thứ 2:
Khẩu hoà v”tranh. Trong sinh hoạt
tập thể, trong những giờ bàn bạc thảo luận, mọi người cần được giáo dục nguyên
tắc khẩu hoà, biết cách phát biểu ý kiến của mình nhưng đồng thời cũng phải
biết tôn trọng ý kiến của kẻ khác, không được nặng lời chỉ trích, đả kích v.v... Thái độ chỉ trích, đả kích đem lại không khí nặng nề,
bất hoà cho sinh hoạt tập thể và làm trở ngại nội dung của đề tài thảo luận.
Trái lại trong không khí hoà hợp tương kính của thảo luận mọi người sẽ đón nhận
được cảm giác an ổn hạnh phúc của sinh hoạt tập thể.
Bài
học thứ 3: Là giới hoà.
Sự khác biệt về tin ngưỡng hay tư tưởng là sự khác biệt của màu áo về tâm hồn.
Tuy rằng mọi người mỗi ý nghĩ, mỗi hoàn cảnh khác biệt nhau, nhưng có cùng
chung một chí hướng. Chí hướng ấy là đưa đến hạnh phúc an vui, nhưng muốn được
mục đích an vui mọi người phải cùng chấp nhận chung một con đường dẫn đến, con
đướng ấy được mệnh danh là giới hoà. Trong một tổ chức, một đoàn thể nào cũng
cần phải có trật tự, tất nhiên phải có quy luật hẳn hoi. Vậy trong đạo Phật,
mỗi Phật tử tuỳ theo địa vị tu học của mình mà lãnh thọ nhiều hay ít giới luật
như vậy mới cùng nhau đi trên con đường một chí hướng.
Bài
học thứ 4 lợi hoà: Về nguyên tắc lợi hoà, đem lại quyền lợi
vật chất đồng đều cho mọi người, khiến mọi người an tâm phục vụ, an tâm làm
trọn bổn phận của mình, và dễ chấp nhận thực hành và phát triển các nguyên tắc
trên (thân hoà, khẩu hoà, giới hoà).
Bài
học thứ 5 ý hoà đồng duyệt: Trong 3 nghiệp, ý nghiệp
là hệ trọng hơn cả, ý là động cơ điều khiển thân hành động, miệng nói ra lời.
Vì thế cho nên trong một tập thể, một gia đình mỗi người cần phải giữ gìn ý tứ
tâm địa của mình. Nếu ý tưởng hiền hoà vui vẻ thì thân và lời nói dễ giữ được
hoà khí. Trái lại nếu ý tứ bất hoà thì thân và khẩu khó mà giữ được sự hoà
hoản.
Bài
học thứ 6 kiến hoà đồng giải: Trong sự sống chung mỗi người hiểu biết được điều gì hay tốt đẹp,
thì đem giải bày cho nhau hiểu, như thế trình độ không chênh lệch sự tu học mới
mau tinh tiến, tinh thần bình đẳng mới dễ giữ vững giữa những người cùng ở.
Thực hiện kiến hoà giúp các vị đồng tu nuôi dưỡng những tri kiến thánh thiện,
đưa đến xuất ly.
Hoà là bài học
quan trọng, cần áp dụng cho mọi tập thể dù lớn hay nhỏ, khi nói đến hoà là
người ta xác nhận sự bất đồng là điều kiện không tốt trong mọi tình huống, hoà
mà không đồng thì đánh mất mọi ý nghĩa của nó.
Vì thế để việc
lãnh đạo tập thể đem lại lục hoà một cách thiết thực, Thế Tôn lại dạy nguyên tắc
“tứ nhiếp”là nguyên tắc ứng dụng
thành công tốt đẹp trong việc lãnh đạo mọi tập thể cũng như muốn cá nhân nào
trở về với mình.
Tuỳ theo trình
độ, cá nhân và nhu cầu của mỗi cá nhân mà biện pháp tâm lý, để nhiếp hoá, thu
phục được thể hiện khác nhau.
Đối với những ai
cần sự giúp đỡ về mặt vật chất, kiến thức, an ủi, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm
tu học, thì chúng ta áp dụng nguyên tắc “Bố
thí”. Do có sự giúp đỡ mà sự thông cảm, cảm mến có mặt. Do có sự hiểu biết
cảm mến chúng ta dễ dàng thu phục được những cá nhân này và giảng dạy cho họ có
kết quả.
Đối với những ai
tâm lý thích “ái ngữ “thích những
lời nói dịu dàng hoà ái, thành thực, khôn khéo .... thì chúng ta dùng “ái
ngữ”để cảm hoá nhiếp phục họ. Thông thường mọi người
thích ái ngữ và khó chịu với những lời nói nặng nề, thiếu tế nhị v.v... người
lãnh đạo muốn thành công phải biết “vận dụng ái ngữ”.
Với những ai cần
“lợi hành”cần khích lệ cần phải giúp
đỡ trong công việc thì chúng ta đáp ứng họ. Do lợi hành đưa đến cảm mến và chịu
sự lãnh đạo.
Với những tâm lý
nào cần phải cùng làm việc, cùng ăn, cùng ở v.v... cần có thời gian gần gũi thì
chúng ta cần áp dụng nguyên tắc “đồng sự”, có giống với người, có cùng làm,
cùng lo chung công việc mới có điều kiện để chia xẻ, tìm hiểu cảm thông. Từ đây
tình cảm tốt đẹp tương giao tốt nảy sanh. Có đồng sự thì dễ nói cho nhau nghe
hơn, do đó người lãnh đạo mới có thể gây ảnh hưởng của mình dễ hơn.
Với những ai cần
phối hợp các nguyên tắc trên để nhiếp hoá thì người lãnh đạo tuỳ duyên mà vận
dụng. Trong nghệ thuật vận dụng tâm lý để đạt mục tiêu giáo dục cũng không làm
gì khác hơn ngoài 4 nguyên tắc tứ nhiếp pháp trên.
17-
TINH THẦN GIÁO DỤC NÊU THÍ DỤ CỤ THỂ:
Nhà giáo dục
khéo giảng dạy, khéo làm cho học viên chóng hiểu những gì mình dạy. Một nội
dung giảng dạy tốt, nếu không được truyền đạt bằng một kỹ thuật tốt thì việc
giáo dục chưa hoàn hảo.
Đức Thế Tôn
trong phương pháp giảng dạy của Ngài, Ngài vừa ứng dụng nguyên tắc “khế cơ”,
“khế thời”, “khế lý”vừa khích lệ, lại vừa vận dụng các thí dụ với các hình ảnh
cụ thể quen thuộc với người nghe để soi sáng cho người nghe dễ hiểu điều Ngài
muốn nói.
Thật là phong
phú với rất nhiều hình ảnh và ví dụ trong kinh điển Nam Tạng và Bắc Tạng Phật
Giáo.
Đức Thế Tôn ví
dụ lời dạy của Ngài như chiếc bè để qua sông, như ngón tay chỉ mặt Trăng, hay
giáo lý như bản thân để chỉ đường.
Nói đến hương vị
và sắc thái đặc biệt của nội dung giáo lý. Thế Tôn dạy: “Như biển chỉ có một vị
mặn của muối, cũng thế giáo lý của ta chỉ có một vị là vị giải thoát”.
Các tên kinh Nam
Tạng và Bắc Tạng cũng đều nói lên những hình ảnh ví dụ như tên kinh Phạm Võng,
Xà dụ, Gò mối, Khúc gỗ, Kim Cương, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v... Thế Tôn đã sử
dụng phương pháp giảng dạy rất sống động, cụ thể, dễ hiểu hấp dẫn, thu hút sự
chú ý của người khác và có tác dụng đánh vào tâm thức của người nghe. Kèm theo với những
phương pháp này,Thế Tôn còn giảng những đề tài có chuyên sự bối cảnh sống động
của nó khiến cho sự giảng dạy tác dụng càng hữu hiệu hơn.
Ví dụ như câu
chuyện ở Kosampi, bên bờ sông Hằng, khi thấy một khúc gỗ lềnh bềnh trên mặt
nước, Thế Tôn gọi các thầy Tỳ Kheo lại chỉ khúc gỗ và dạy về con đường giải
thoát. Ngài dạy: “Nếu khúc gỗ không hư nát trong ruột, không tấp vào hai bên
bờ, không vướn vào nước xoáy, không bị người hay vật vớt, không tấp vào cồn bãi
thì nhất định khúc gỗ sẽ trôi thẳng ra biển. Cũng thế người tu nếu không như
khúc gỗ hư ruột (chấp tà kiến) không tấp vào hai bên bờ (không chấp có, chấp
không)(hoặc vướn vào căn và trần), không mắc vào nước xoáy (rơi vào 5 dục)
không bị người vật vớt (không ràng buộc bởi người cư sĩ). Không tấp vào cồn bãi
(ngã mạn), không bị phi nhơn và chư thiên nhặt (không cầu sanh thiên hưởng
phước lạc) thì nhất định người tu sẽ trôi thẳng về biển thánh, thành tựu phạm
hạnh, chứng ngộ giải thoát Niết Bàn.
Ví dụ ở kinh
Pháp Hoa và pháp cú như bài kệ.
Như
mái nhà vụng lợp.
Mưa
có thể thấm vào.
Cũng
vậy tâm không tu.
Tham
dục dễ thâm nhập.
Các hình ảnh ví
dụ sống động ở các kinh, tuy khác nhau nhưng tất cả đều phục vụ nói lên diệu lý
của kinh tạng.
Phương pháp
giảng dạy bằng nhiều thí dụ của Đức Thế Tôn, là một phương pháp rất khoa học và
rất tâm lý, khiến cho việc giảng dạy đem lại nhiều kết quả tốt đẹp, có thể nói
đây là phương pháp rất mẫu mực, mà các phương pháp giáo dục của thế gian này
cũng cần áp dụng để đem lại hiệu quả tốt cho việc giáo dục và đào tạo con người
hoàn hảo.
Đức Thế Tôn đã
xuất hiện như một nhà giáo dục vĩ đại, rất nhân bản và lý tưởng qua các tinh
thần và phương thức giáo dục đã được trình bày ở trên./.
*** ***
***
Tổng cọng cú 16
cách giáo
dục của Thế Tôn: Như
1/ Mục tiêu giáo
dục – 2/ Tinh thần trách niệm cá nhân
– 3/ Giáo dục cá nhân -4/
Tinh thần giáo dục thực tiễn- 5/ Tinh thần giáo dục phê phán- 6/Tinh thần hướng
dẫn -7/ Tinh thần khích lệ - 8/ Tinh
thần tự tín tự chủ - 9/ Tinh thần độc lập trừ nô lệ -10- /Giáo dục con người toàn diện- 11/ Giáo
dục đánh thức -12/ Giáo dục thiền định -
13/Tinh thần giáo dục trung đạo – 14 Giáo dục tinh thần không
chấp thủ - 15 Giáo dục tùy duyên
bất biến 16- Tinh thần lục hòa
và tứ nhiếp pháp.
Soạn theo PPCB Quyển IV -Bài của Thích
Chơn Thiện.
04-10-1998 (vi tính 15-5- giáp thân -
2-7-2004
Đ.Đ Thích Thiện Phương biên soạn
và hướng dẫn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét