Chủ Nhật, 4 tháng 6, 2017

CÁC TINH THẦN GIÁO DỤC CỦA ĐỨC THẾ TÔN

Các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập Đức Phật như một đấng giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại hoặc đề cập đến Ngài như một đại tư tưởng, nhà cách mạng, xã hội.v... Nhưng ít khi người ta đề cập đến Ngài như  một nhà giáo dục lý tuởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo  dục toàn diện và tiên tiến.
  Như chúng ta đã biết, giáo dục làm nên văn hoá, văn minh loài người. Phật giáo qua 25 thế kỷ đã ảnh hưởng, đã đóng góp nhiều vào văn hoá nhân loại, nếu không muốn nói Phật giáo có thể làm nên cái gọi là văn hoá Phật giáo cho nhân loại. Sự kiện đóng góp này đủ chứng tỏ Phật giáo như là một hệ thống giáo dục. Chúng ta hãy tìm hiểu cụ thể:
Giáo dục hiểu theo nghĩa rộng rãi  như là con đường hai chiều của dạy và học, của con người kể từ lúc sinh ra cho đến khi chết, và có mặt ở ba môi trường sinh hoạt, gia đình, học đường và xã hội.
Chủ trương của Phật giáo là giải thoát nghiệp, chuyển đổi từ nghiệp ác sang nghiệp thiện, và từ nghiệp thiện đến giaỉ thoát. Thế có nghĩa Phật giáo  là con đường giáo dục con người đủ hai mặt nhận thức và hành động từ khi sanh ra cho đến khi chết ở khắp các môi trường sống.
      1- MỤC TIÊU GIÁO DỤC
      Mục tiêu giáo dục của đức phật là luôn hướng đến hai đối tượng là: Đào tạo con người xã hội và con người chính nó. Con người xã hội đáp ứng các nhu cầu xã hội  như kinh tế, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, chính trị. Con người chính nó là con người toàn diện của vật lý, tâm lý, sinh lý, ý chí, tình cảm và trí tuệ đang trôi chảy. Một hệ thống giáo  dục thiếu một trong hai mục tiêu ấy là một nền giáo dục không hoàn chỉnh. Thế Tôn đã giáo dục con người đầy đủ về  các mặt ấy. Về mặt xã hội, kinh Thiện Sanh nói lên việc xây dựng 6 mối tương giao tốt của xã hội. Tương giao giữa cha mẹ, con cái, vợ chồng, thầy trò, cá nhân, bà con, láng giềng, bạn bè, tu sĩ, và cư sĩ,chủ và tớ
Kinh Tăng Chi, chương 7 pháp đề cập  đến 7 điều làm cho một quốc gia cường thịnh. Chương 10 pháp nói đến một chính phủ tốt cần thực hiện tốt  10 điều gọi là “Thập vương tử pháp”.
Kinh Chuyển Luân Pháp Vương Sư Tử Hống Tương ương kinh nói rằng: Nghèo đói là nguyên nhân chính của trộm cắp, hung ác, thù hằn, bạo động và vô luân. Để cải thiện tình trạng trong xã hội ấy, cần phải cải thiện nền kinh tế, bằng cách cung cấp các hạt giống và phương tiện canh tác cho nông dân, cung cấp vốn đầu tư cho thương gia và trả lương thích đáng cho công nhân. Bấy giờ Thế Tôn dạy các lễ tế đàn cần được thay thế bằng các cuộc đại chẩn thí cho người dân.
Về mặt cá nhân,Thế Tôn dạy hạnh phúc của đời sống gia đình, mỗi cá nhân cần phải thực hiện đủ:
- Giỏi tay nghề, siêng năng, biết điều hành công việc- biết quân bình thu và chi.
- Biết làm ra của cải hợp pháp bằng sức lao động của chính mình- biết đầu tư.
- Biết làm bạn với thiện(có giới, tín và huệ)
- Biết quân bình sức khoẻ và tâm lý   
- Biết lo cho đời sau- Tín, thí, giớí và huệ
- Biết sống trong hiện tại làm chủ suy tư, không tiếc quá khứ, không mộng tưởng tương lai
2- TINH THẦN TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN
Về tinh thần trách nhiệm cá nhân, Thế Tôn không dạy con ngươì phải lệ thuộc vào Ngài, phải phó thác đời mình cho bất cứ quyền năng nào cả. Ngài dạy: Ngươi phải làm công việc của ngươi, vì Như Lai chỉ dạy con đường. “Ngươi là nơi nương tựa; ý dẫn đầu các pháp, ý là chủ, ý tạo tác...Nói về Nghiệp, Tăng chi Trung Bộ kinh chỉ rõ: Người là tác nhân, chủ nhân của nghiệp, là  kẻ thừa tự  của nghiệp”
Nếu không có tinh thần trách nhiệm cá nhân thì nhân quả của Phật giáo khôngcó gì bàn đến nữa. Phật giáo không còn lý do để có mặt ở đời. Nếu không có tinh thần  trách nhiệm cá nhân thì học đưng cũng không thể được thiết lập, giáo dục và lụật  pháp xã hội sẽ không được thiết lập, xã hội sẽ không có chổ thi hành, cuộc đời sẽ  đại loạn.
3-  GIÁO DỤC CÁ  NHÂN:
Phương thức giáo dục hữu hiệu và hợp lý nhất là phương thức giáo dục cá nhân mà không phải là giáo dục tập thể . Bởi một học viên có các điều kiện tâm lý sinh lý vật lý tình cảm trí tụê và điều kiện sống khác nhau, nên cần được đón nhận các điều kiện và phương thức giáo dục khác nhau. Tinh thần  giáo dục cá nhân là tinh thần giáo dục “khế cơ”. Đức Thế Tôn đã thực sự áp dụng nguyên tắc này từ  buổi đầu giáo  hoá. Hình ảnh hồ sen có những cộng sen vừa ra khỏi bùn, có những cọng sen ở lưng chừng nước, có những cộng sen vượt ra khỏi mặt nước, tiếp thu được ánh sáng mặt trời và toả ngát hương. Con người cũng thế có những căn trí bất đồng, có người mau hiểu, có người chậm  hiểu, có người nặng về sân, về si, có người thích tịnh, có người ưa độngv.v... Nhưng tất cả  qua quá trình giáo dục, lần lượt sẽ  như cánh sen vươn ra khỏi nước để tiếp thu giáo lý giải thoát. Thế Tôn quán sát căn cơ chúng sanh. Như vậy Thé Tôn không ngần ngại lên đường giảng dạy, giáo hoá tuỳ căn cơ khích lệ khiến cho mọi ngưòi đều được lợi ích an lạc giải thoát.  Thế Tôn đã vận dụng rất thiện xảo tinh thần “khế cơ vào cả mặt ngôn ngữ diễn đạt, cung cách diễn đạt và tâm lý thích ứng với từng đối tượng nghe pháp, mà chúng ta gặp rất nhiều qua kinh điển của các bộ phái Phật Giáo.
Khi đến với nông dân, Thế Tôn dùng ngôn ngữ và hình ảnh nhà nông, đến với Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Thế Tôn biểu hiện cung cách và ngôn ngữ của chính họ.
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói Pháp đúng thời, đúng chổ khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả. Ý nghĩa này cũng được gồm vào tinh thần “khế cơ” ấy....
Giới luật cũng được Thế Tôn thiết lập trên nguyên tắc “khế cơ”, Tăng, Ni , nam, nữ cư sĩ có giới luật riêng. Các đối tượng tu tập thiền chỉ và thiền quán cũng được dạy khác nhau, đối tượng căn cơ khác nhau.
4- TINH THẦN THỰC TIỄN THỰC TẠI
Một tinh thần giáo dục đặt sắc mà Thế Tôn truyền dạy là tinh thần thiết thực hiện tại, phẩm “Cây Lau”Tương Ưng Bộ Kinh I  dạy:
Không thương tiếc việc đã qua        - Không mong việc sắp đến,
  Sống ngay với hiện tại                     - Do vậy sắc  thù diệu
  Do mong việc sắp tới                       - Do tham việc đã qua
  Nên kẻ ngu héo mòn               - Như lau xanh lìa cành
    Kinh A Nan nhất Dạ hiền trung bộ kinh III ghi :
Quá khứ không truy tìm       - Tương lai không ước vọng
Quá khứ đã đoạn tận            - Tương lai chưa đến
Chỉ có pháp hiện tại            - Tuệ quán chính ở đây
Với kiếp sống của con người thì chỉ có hiện tại là có thực(tương đối). Sống có ý nghĩa là sống với thực tại, sống vào hiện tại, hay nói cách khác chỉ có hiện tại là sống. Sống ngay với hiện tại là tinh thần thiết thực - Than thở, nuối tiếc quá khứ hay mơ ước tương lai chẳng những để mình rơi vào chỗ phi thực, còn để mình vướn mắt vào rối loạn tâm lý, khổ đau và đánh mất hiện tại đang là cái hiện sống động mới mẻ, đầy  sáng tạo, đầy nghĩa sống, và có thể hiện tại là vĩnh cữu nếu mình biết nhiếp phục ý (xoá tan ý niệm về thời gian) .
Nếu không biết chấp nhận hiện tại như nó đang là để vận dụng hiệu quả khả năng và trí tuệ của mình đến an lạc hạnh phúc và giải thoát, thì Thế Tôn đã dạy, dung sắc của mình sẽ khô héo nhanh chóng như lau xanh lìa cành, có lẽ hạnh phúc đời mình cũng khô héo như thế.
Phật dạy: “Có người có thể không bị bệnh về thể xác trong một năm hay có thể đến cả 100 năm, nhưng thật hiếm có người không bị bệnh về tinh thần dù chỉ trong một phút”. Những tâm lý được coi là bệnh của tinh thần gồm có 5 triền cái (tham lam, sân hận, hôn trầm, trạo cử, hối hận, hoài nghi, do dự) do 5 loại tâm lý này có mặt nó sẽ trói buộc và ngăn che tâm lý con người. Loại trừ nó thì tinh thần sẽ sáng tỏ thanh tịnh và an lạc, như mặt trăng thoát khỏi mây mù.
Nếu đi sâu vào giáo dục tâm lý hiện đại, nhất là ngành tâm lý trị liệu, chúng ta sẽ bắt gặp nhiều kết quả này. Phần lớn các rối loạn, sầu muộn của con người đều do tư duy của con người gây ra, nhất là những tư duy về quá khứ không thiết thực, về những tương lai huyền ảo. Có những kết quả thống kê của giáo dục kết luận rằng có thể 90% cuộc sống mình bị đánh mất bởi các tư duy và mộng tưởng sai lầm ấy.
Thật là dễ hiểu, những sự kiện bất như ý xảy đến với mình gây phiền muộn cho mình thì ít mà tư duy của mình về các sự kiện ấy quấy rầy phiền hà mình thì nhiều. Vả lại, nghĩ nhiều về quá khứ và tương lai không thiết thực chỉ đánh mất thời gian và năng lượng đáng lẽ được dùng vào các việc đem lại lợi ích và an vui cho mình và mọi người.
Như thế hiện tại và tại đây như là hòn đảo an toàn mà Thế Tôn đã chỉ cho con người nương tựa để khỏi rơi chìm vào trong biển phiền não của vọng tưởng. Và kể từ đó có thể đi vào nghĩa cuộc sống hạnh phúc mà 1000 năm con người đi tìm kiếm.
Sau khi trở về với hiện tại, con người phải biết làm chủ tư duy và dục vọng của mình, muốn hay không muốn những gì, tư duy hay không tư duy những gì để được lợi ích thiết thực.
Trong kinh Cù La (Trung bộ kinh II)  Malun Kyaputta đặt ra 10 câu hỏi siêu hình để hỏi Thế Tôn: “Thế Tôn thường hay vô thường? Như Lai có tồn tại sau khi chết v.v...Thế Tôn đã im lặng không trả lời. Ngài nói cho Malun Kyaputta nghe câu chuyện như một người bị bắn bởi mũi tên độc, vấn đề cấp thiết nhất là phải giải phẩu độc ngay chứ không phải vấn đề là tìm cho ra ngọn ngành mũi tên và người bắn mũi tên trước khi  chịu giải phu. Cũng thế, vấn đề cấp tiết của con người là nhổ mũi tên “đau khổ” chứ không phải đi tìm những câu trả lời cho các vấn đề siêu hình không thiết thực.
Một lần ở Kasambi, Thế Tôn dạy các thầy Tỳ Kheo: Những gì Như Lai biết ví như rừng lá Simsapa, còn những gì Như Lai giảng dạy thì ít như nắm lá trong tay. Nhưng ở đây là những phương thức trừ khổ, đây là tính chất thực tiễn, thực tế rất thiết thực hiện tại của những lời giảng dạy của Thế Tôn.
Ở các kinh khác, ý nghĩa thiết thực hiện tại còn được Thế Tôn cắt nghĩa, quan sát tự thân, tự tâm để thấy rõ tham, sân, si để đoạn trừ là thiết thực hiện tại.
Giảng dạy về hạnh phúc đời sống gia đình như đã trình bày, là tính chất rất thực tế của tinh thần giáo dục. Thế Tôn đã không hề chỉ  cho hàng đệ tử đi vào scầu nguyện tế lễ trên đường tìm kiếm hạnh phúc. Ngài dạy tế đàn có ý nghĩa là tế đàn bố thí giúp đỡ tha nhân và tế đàn có nghĩa nhất là sự tu tập giải thoát của chính tự thân.
Tinh thần thực tiễn thực tế là tinh thần giáo dục nổi bậc của tâm lý giáo dục hiện đại, qua tinh thần thực tiễn ấy, Phật giáo nổi bậc lên sắc thái rất là giáo dục.
5 - TINH THẦN PHÊ PHÁN:
Một tinh thần nổi bậc khác rất  “khoa học” đã làm ngạc nhiên các nhà nghiên cứu tôn giáo là tinh thần phê phán căn cứ vào thể nghiệm của chính tự thân giữa cuộc sống trôi chảy này. Khi khuyên bảo những người Kalama đang hoang mang nghi ngờ trước lời tuyên bố của ngoại đạo, chỉ có giáo lý của mình là đúng số 1, Thế Tôn dạy “Này các Kalama, đừng để bị dẫn dắt bởi những báo cáo, hay bởi truyền thống, hay bởi tin đồn. Đừng để bị dẫn dắt bởi thẩm quyền kinh điển, hay bởi lý luận suông, hay bởi suy lý, hay bởi sự xét đoán bề ngoài, hay bởi thích thú trong những lý luận, hay bởi những điều “tuồng như”có thể xảy ra, hay bởi ý nghĩ đây là bậc đạo sư của chúng ta. Nhưng này các Kalama, khi nào các người tự mình biết chắc chắn rằng những việc ấy là thiện là tốt, hãy chấp nhận và theo chúng”.
Thế Tôn dạy các đệ tử xem xét ngay cả Thế Tôn, để thấy rõ chân giá trị của Ngài.
Tinh thần phê phán đó luôn luôn gắn liền với thực tế thực tại, rất khách quan, rất hiểu biết, không để cho nhận thức con người chịu n”lệ dưới bất cứ một sức mạnh quyền năng nào. Hiện nay, tinh thần phê phán làm chuẩn cho các tinh thần đại học.
6 - TINH THẦN HƯỚNG DẪN:
Thế Tôn xác nhận Thế Tôn chỉ làm người chỉ đường, còn mình phải làm công việc của chính mình. Kinh Niết Bàn chép vào thời điểm Thế Tôn sắp từ giả cuộc đời, Thế  Tôn từ chối vai trò lãnh đạo tăng chúng khi tôn giả  A-Nan xin Thế Tôn cho lời di giáo của bậc lãnh Đạo, và Tôn giả băn khoăn rằng sau khi Thế Tôn nhập diệt, Tăng chúng sẽ không có ai lãnh đạo. Thế Tôn dạy: “Y tự pháp, pháp lãnh đạo”. Pháp ở đây là con đường sống vào an lạc giải thoát. Trọn 45 năm giáo hoá, Thế Tôn luôn luôn là người chỉ đường mà không bao giờ ra lệnh hoặc ép buộc ai tuân phục Ngài.
Như thế, chính Thế Tôn như một ông vua thầy thuốc xem bệnh chúng sanh và cho thuốc. Đấy cũng chỉ là tinh thần chỉ đường. Thế Tôn đề cao phương pháp giáo hoá thông qua thân giáo và khẩu giáo bằng quan sát và phân tích thực tế. Mục đích   việc giảng dạy của Ngài là giúp người nghe tự mình nhận ra con đường và tự mình thực hiện con đường.
7- TINH THẦN KHÍCH LỆ:
Nikaya và Agama thường ghi lại “Thế Tôn đã thuyết pháp đã khích lệ, làm cho mọi người đều được lợi ích, cho đến các bậc Thánh hữu học vẫn còn cần được Thế Tôn khích lệ”.
Các phẩm kinh “Dược Thảo Dụ”, “Thọ ký”,  “Phổ Hiền”của kinh Pháp Hoa đều mang tinh thần khích lệ ấy của Thế Tôn.
Đến giờ phút cuối  cùng của cuộc đời Ngài, Thế Tôn còn không quên khích lệ chư tăng rằng: “Các pháp hữu vi là v”thường, hãy tinh tấn lên, chớ có phóng dật”. Và khích lệ vị thị giả thân quý của Ngài: “Này A-Nan, chớ có sầu muộn, không bao lâu nữa ngươi sẽ chứng đắc những gì chưa chứng đắc”. Này các thầy Tỳ Kheo phải ý thức toàn bộ cuộc đời đều chuyển biến v”thường, có hợp tất có tan, đừng lo buồn gì cả, tướng trạng của thế gian là vậy. Cho nên các thầy phải nỗ lực tinh tấn sớm cầu giải thoát, dùng ánh sáng trí tuệ diệt trừ hắc ám v”minh, thế gian quả thật mong manh không một thứ gì bền chắc. Ta nay được diệt độ thì cũng như trừ được cơn bịnh ngặt nghèo nguy hiểm. Đây là xác thân nên bỏ, là vật tội ác, giả gọi là thân, nó chìm đắm trong biển lớn sanh già bệnh chết, có kẻ trí nào trừ được nó như giết được bọn giặc cướp mà chẳng vui mừng sao. Này các Tỳ Kheo, các ông thường phải nhất tâm siêng cầu đạo giải thoát, tất cả thế gian dầu là pháp biến động hay pháp bất động đều là trạng thái bất an và tan rã. Thôi các thầy hãy yên lặng, không nên nói nữa, thì giờ sắp hết, ta sắp diệt độ, trên đây là những lời giáo huấn của ta.
8-  TINH THẦN TỰ TÍN TỰ CHỦ:
Khích lệ là chuẩn bị để xây dựng tinh thần tự tín và tự chủ của hàng đệ tử. Bên cạnh trình bày giáo lý thật minh bạch về khổ (khổ tập, khổ tập diệt) và khổ tập diệt đạo,Thế Tôn xác nhận rằng bằng nỗ lực riêng của mình con người có thể thực hiện được giải thoát ngay trong đời này. Chỉ cho con người trở về nương tựa chính mình là dạy con người trở về với tự tín.
Lòng tự tín không thể thiếu được đối với người tu giải thoát. Nó cũng không thể thiếu đối với người đời, không tin người khác thì mình có thể sống, nhưng không tin ở mình thì thật là khó sống, hoặc giả có thể sống thì cũng đã đánh mất nghĩa sống.
Trên lộ trình tu tập chuyển đổi tâm lý, Thế Tôn đã dạy tín là khởi đầu cho hỷ lạc kinh an ...Sự kiện Thế Tôn đã ra đời và tu tập cho đến lúc thành đạo là sự kiện thiết lập tự tín của con người đang ở giữa vùng sinh tử mờ mịt bao la.
Ngoài những lời dạy khích lệ trực tiếp với các đệ tử, Thế Tôn còn vận dụng các hình thức khích lệ gián tiếp như các trường hợp sau. Ngài tuyên bố sự chứng đắc chánh trí của một số đệ tử Sa di nhỏ tuổi, điển hình là trường hợp của đệ tử Tôn Giả  Xá Lợi Phất và đệ tử của Tôn giả A-Nậu Lâu Đà. Qua một số đệ tử nhập đạo khi tuổi đã già, một số các ngoại đạo đầu Phật, một số trường hợp các Ni, điển hình như trường hợp Tôn giả Ni Pata Cara,(Liên Hoa Sắc) người đã chịu khổ đau ê chề trong cuộc sống đến tuyệt vọng.
Việc chọn Tôn giả Xá Lợi Phất là “tướng quân trong chánh pháp”, Tôn giả Mục Kiền Liên là vị đệ tử thứ hai của Thế Tôn và Tôn giả Ưu Ba Ly chủ trì về luật tạng cũng nói lên một ý nghĩa khích lệ nào đó, ngoài thực chất giá trị của các Tôn giả này. Đây là niềm tin và khích lệ mà Thế Tôn dành cho chúng Tăng rằng: Giác ngộ không hẳn liên hệ đến thời gian tu hành, tuổi đời hay giai cấp xã hội. Ai cũng có thể đắc tuệ giác tối thượng, tuỳ theo nỗ lực tu tập của mình.
Trường hợp Thế Tôn độ Tôn giả Nan- Đà là một trường hợp điển hình khác nói lên tác dụng của tâm lý khích lệ của Thế Tôn.
Tôn giả Nan Đà vốn mê nhan sắc của người vợ mới cưới nên không tu hành được. Thế Tôn dùng phương tiện vận dụng thần thông đưa Nan Đà xuống hoả ngục, rồi lên thăm cõi trời Tam Thập Tam Thiên. Tại nơi đây các tiên nữ diễm lệ hứa chờ đón Tôn giả Nan Đà cùng chung sống nếu Tôn giả siêng năng tu hành. Trở về trần gian Tôn giả Nan Đà không còn nhớ vợ nữa, chỉ nhớ những tiên nữ và nổ lực tu tập, sau đó đắc thánh quả. Tuỳ theo tâm lý cá nhân mà Thế Tôn khích lệ.
Do vậy các kinh Bắc tạng, theo truyền thống ấy thường hết sức ca ngợi, tán thán khích lệ người thọ trì, đọc tụng, biên chép và giải nói kinh điển. Đây là hình thức xây dựng tự tín cho hành giả trong bước đầu giải thoát.
Kinh Kim Cương và kinh Pháp Hoa có thể điển hình cho tinh thần khích lệ tự tín ấy. Kinh Kim Cương có đến 14 lần Thế Tôn tán thán công đức thọ trì đọc tụng, giải nói.
Qua lĩnh vực giáo dục tự tín là một đức tính mà phương pháp giáo dục có trách nhiệm xây dựng cho con người. Bởi thiếu tự tín thì sẽ thiếu tự chủ sinh ra ỷ lại, không vận dụng hiệu quả khả năng của tự thân để giải quyết và xây dựng cá nhân.
Tinh thần giáo dục khích lệ và tự tin này đã được Thế Tôn áp dụng trong suốt 49 năm giáo hoá. Cách đây 25 thế kỷ mãi đến ngày nay nó vẫn còn giá trị cho cả đời lẫn đạo. Một xã hội, một quốc gia hùng mạnh mà thiếu phương pháp giáo dục khích lệ và tự tin thì khó có một xã hội, một quốc gia hùng cường và thịnh vượng được.
9 - TINH THẦN ĐỘC LẬP TRỪ N”LỆ:
Phật giáo dạy con người đi vào giải thoát có nghĩa là đi ra khỏi mọi strói buộc, mọi ách nô lệ. Nô lệ lớn nhất của hiện tượng giới là nô lệ chính dục vọng của mình. Gốc của dục vọng chính là vô minh. Đó là con đường Bát chánh dẫn đến vô tham, vô sân, vô si, thoát ly mọi khổ ách. Thực hiện con đường này là thực hiện từng bước tự tri, tự chủ, hay làm chủ lấy mình.Tiếp thu tinh thần vô tham thì sẽ tự dập tắt hiện tượng tham nhũng của xã hội hay ít nhất không tạo điều kiện thuận lợi cho tham nhũng phát khởi sanh. Vô sân thì sẽ dập tắt được những hiện tượng nổi loạn, tranh chấp gây mất trật tự trong xã hội. Vô si sẽ giúp mở rộng con đường đi vào trí tuệ, con đường sáng tạo, những nhân tố của văn hoá lành mạnh và văn minh nhân loại.
10- GIÁO DỤC CON NGƯỜI TOÀN DIỆN:
Một nền giáo dục không chỉ dạy những kiến thức chuyên môn để một chiều đáp ứng các mục tiêu xã hội thì không phải giáo dục toàn diện.
Một nền giáo dục chỉ cung cấp kiến thức, rèn luyện sức khoẻ và một số vấn đề luân lý đạo đức đầy ước lệ cũng không phải toàn diện.
Một nền giáo dục trao truyền kiến thức thể dục, đạo đức, mỹ dục, sinh lý và lao động cũng chưa nói lên được ý nghĩa toàn diện. Vấn đề đường hướng giáo dục này trở nên toàn diện hay không là do cái nhìn nhất quán và toàn diện về con người hay không.
Đặt vấn đề như thế là đặt vấn đề mẫu người gáo dục. Con người là gì cần được xác định trước khi quyết định nội dung phải dạy nó những gì và dạy như thế nào.
Các đường hướng giáo dục tiên tiến vẫn thường bất ổn trong việc xây dựng mẫu người này. Phật giáo đặc biệt  nổi bật ở trí tuệ nhìn thấy con người và sự vật như thật, nên hy vọng sẽ đề bạt được một mẫu người khả dĩ lý tưởng.
Phật dạy rằng: Thế giới này do duyên sinh, con người cũng do duyên sinh. Thế  giới và con người có cùng chung tương quan bất nhị, cá nhân gia đình và xã hội đều ở trong sự tương quan bất nhị đó.
Thế Tôn định nghĩa cái gọi là con người chỉ là tập hợp của 5 uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) . 5 uẩn ấy cũng chính là thế giới. Theo lời dạy của Thế Tôn giáo dục con người cũng chính là giáo dục toàn diện 5 uẩn ấy.
Về sắc uẩn, chỉ rõ về con người và thế giới vật lý, sự sinh thành, tồn tại và hoại diệt của nó. Tương tự đối với 4 uẩn còn lại. 5 uẩn vốn trống không, không có tự ngã, chúng là hiện hữu của tương duyên nên vô thường và khổ đau. Tuy nhiên theo trí tuệ Phật giáo, 5 uẩn không phải là gốc của khổ đau.Trọng điểm của giáo dục là chỉ  rõ  lòng tham ái, chấp thủ là gốc của khổ đau mà không phải là thế giới vật lý thường xuyên trôi chảy, và đồng thời chỉ rõ gốc của an lạc, hạnh phúc thực sự là trí tuệ hay trí tuệ giải thoát. Từ đây nhà giáo dục cần xác định một số nội dung của giáo dục. Trí huệ mà không phải kiến thức. Kiến thức chỉ là sản phẩm của tư duy ngã tính, một nhân tố của con người mà không phải là tư duy tòan diện. Nó không nói lên thực tại vô ngã và hạnh phúc chân thực vô ngã. Chỉ có khi trí tuệ (Chánh kiến và chánh tư duy) có mặt thì con người toàn diện mới có mặt. Giáo dục toàn diện là giáo dục vừa cung cấp kiến thức, vừa tạo điều kiện cho trí tuệ ấy sinh khởi. Một hệ thống giáo dục mà không nhận ra tầm quan trọng của giáo dục thẩm mỹ, tình cảm và sinh lý thì còn lệch lạc, không toàn diện. Vấn đề chủ yếu của giáo dục là giúp con người biết nhìn và biết sống như thế nào để đem lại hạnh phúc cho mình và cho xã hội.
11 - GIÁO DỤC ĐÁNH THỨC
Thế Tôn chỉ là người chỉ đường, con người có thể thực hiện giải thoát bằng nỗ lực riêng của mình. Như thế giáo dục Phật giáo là đường hướng giáo dục đánh thức. Đạo đức là con đường giúp con người đánh thức trí tuệ giải thoát vốn có sẵn trong mình. Dạy đạo có nghĩa là trao truyền phương pháp, soi sáng tư duy để khơi dậy nguồn sáng trong con người. Chỉ đường, vạch mở những gì đang che mờ tâm thức.
Một nền giáo dục như thế, hoàn toàn không đặt nặng ký ức, tín điều cũng không đặt kiến thức, bởi mục đích nhắm đến là giúp người học đạo đi ra khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não đang đè nặng tâm tư họ. Mặt khác giúp họ thích ứng với hướng phát triển xã hội.
Học đường tiên tiến ngày nay đào tạo con người đáp ứng hai mục tiêu, con người chính nó và con người xã hội. Nhưng chiều hướng phát triển có thể nhấn mạnh con người chính nó để có thể tận gốc giải quyết các khủng hoảng tâm lý và xã hội.
Chúng ta có thể chủ quan cho rằng Phật giáo có thể ổn định hướng phát triển cho một nên giáo dục nhân bản và toàn diện. Với tinh thần khoa  học và kỹ thuật, giáo dục tiên tiến với tinh thần chỉ đạo giáo dục của Phật giáo, học đường có thể, thể thực hiện tốt hai mục tiêu chính của giáo dục ấy.
12. GIÁO DỤC THIỀN ĐỊNH
Giáo dục thiền định là giáo dục đặc biệt của Phật giáo, chưa thật sự được vận dụng vào trong bất cứ một hệ thống giáo dục  hiện đại nào.
Phương pháp giáo dục thiền định rất giản dị, rất người nhưng đưa đến kết quả rất lớn, kết qủa tốt đẹp về mặt tâm lý, tình cảm, hoàn bị, tinh thần giáo dục tự trị, tự chủ, tụ tin, trách nhiệm cá nhân, đồng thời mở rộng  hướng sáng tạo nhân tố của văn hoá và văn minh.
Về tình cảm, thiền định đưa con người vào phấn khởi, hoan hoan, hỷ lạc, an tịnh, buông xả vào tình thương v.v..
Về tâm lý, thiền định là quá trình chuyển đổi tâm lý, từ tâm lý thụ động sang tích cực, từ tham sân si qua vô tham, vô sân, vô si, từ thất niệm qua tỉnh giác v.v...
Về tâm lý, thiền là quá trình đưa vào các cảm thọ lạc, hạnh phúc và khắc phục các cảm thọ khổ của thân và tâm. Trong cảm thọ này của thiền định, hành giả hầu như bắt gặp các đối tượng là hạnh phúc mà con người đang mãi đi tìm.
Thiền định còn giáo dục tốt ký ức, khả năng tập trung, kết quả gây nên giúp con người tiếp thu kiến thức tốt.
Các điểm tâm lý tự chủ, độc lập cảnh tỉnh và là khả năng tập trung là các điều kiện tốt chuẩn bị cho các nguồn sáng tạo phát khởi. Tự thân các cảnh giới thiền đã là kết quả sáng tạo của tâm. Trạng thái tâm lý ổn định, an toàn của Thiền, không bị vướn mắc nặng vào tư duy. Thiền định giúp con người loại bỏ các tâm lý mỏi mệt, thụ động, chán nản, sầu muộn, dao động. Đây là đối tượng giáo dục mà ngành giáo dục cần thực hiện để hỗ trợ cho việc dạy học có kết quả tốt.
Ngày nay, Nhật Bản đã vận dụng Thiền vào các lĩnh vực hội hoạ, âm nhạc, thi ca, võ thuật, trà đạo  v.v... Thiền như là sắc thái của văn hoá Phật  giáo trong thời cận đại và hiện đại.
Ở Việt Nam ta, Thiền đã ảnh hưởng sâu đậm vào văn hoá trong suốt 400 năm dưới triều đại nhà Lý và nhà Trần đã tạo nên một giai đoạn lịch sử hào hùng vàng son cho dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam. Mạnh về quốc phòng, sáng tỏ về văn hoá, kinh tế ổn định, dân tộc đoàn kết. Nhờ ba sắc thái ấy mà triều Lý, Bắc đánh Tống, Nam bình chiêm, Triều Trần thì trong vòng 4 năm mà hai lần đánh thắng quân Nguyên, là đạo quân đánh bại cả Châu Âu. Lịch sử Việt Nam đã ghi lại những thành công oai hùng của lịch sử trong các giai đoạn này là kết quả chịu ảnh hưởng của Thiền Phật giáo.
Trong tập bia ký của Vua A dục đã để lại cho thế hệ  ta  một  sự ngạc nhiên kỳ thú. Vua là một nhà chinh phục lừng danh lại gác kiếm mà dùng pháp của Phật để giáo dục nhân dân. Giáo dục mà nhà vua giảng dạy cho Ấn Độ bấy giờ là thiền định, nguyên văn bi ký ghi: “Tiến bộ của luật pháp trong loài người chỉ có hai phần do các luât lệ  và do thiền định. Nhưng các luật lệ thì có ích lợi ít, thiền định thì có lợi ích nhiều hơn. Nhà vua cho rằng, thiền định còn hữu hiệu hơn là giới luật và pháp luật.
Đạo đế mà Thế Tôn dạy, nội dung như là con đường thực hiện thiền định để đi vào Tâm và Tuệ giải thoát. Lời di huấn sau cùng của Thế Tôn là “Đây là gốc cây, đây là căn nhà trống, hãy nổ lực thiền định, chớ để hối tiếc về sau.
Giáo dục thiền định như thế có dấu hiệu sẽ là nhân tố cho một nền giáo dục nhân bản và toàn diện.
13- TINH THẦN GIÁO DỤC TRUNG ĐẠO
Ý nghĩa trung đạo của hành động là lánh xa hai cực đoan, hưởng thụ dục lạc và khổ hạnh ép xác, lười biếng  và nổ lực quá mức.
Khi dạy về tinh tấn, Thế Tôn cho rằng: Tinh tấn như là một đức tính chủ yếu để hoàn thành các đức tính khác. Tuy nhiên, phải hành động theo đúng nghĩa trung đạo, tinh tấn quá mức, tâm lý sẽ rơi vào trạo cử, tinh tấn không đúng mức(yếu) thì tâm lý sẽ rơi vào tâm thụ động. Thế Tôn đã để lại bài học lịch sử của kinh nghiệm tự thân của Ngài về tinh thần giáo dục trung đạo ấy, sau khi từ bỏ 6 năm ép xác khổ hạnh, Thế Tôn đã đi vào con đường trầm tư của Thiền định và đã đi vào giải thoát toàn triệt.
Giáo lý chỉ đạo sống thể hiện trung đạo là Bát Chánh Đạo. Thấy đúng, suy nghĩ đúng, lời nói đúng, sinh hoạt đúng, hành động đúng, nhớ nghĩ đúng, nổ lực đúng, và năng lực tập trung đúng. Đấy là giáo lý chỉ đường vào mục tiêu sau cùng của giáo dục an lạc, hạnh phúc, giải thoát ngay tại đây và bây giờ.
Giáo dục thiền định xuất hiện như là chỉ dẫn con đường sống thể hiện hoà điệu giữa con tim và thiên nhiên v. v..
Như vậy giáo dục trung đạo sẽ đưa đến hạnh phúc trong sự hoà điệu về các mặt tâm lý vật lý, sinh lý, tình cảm và tư duy.  Nơi đây chúng ta thấy giáo dục Trung Đạo như là thực tại như thực .
14-  GIÁO DỤC TINH THẦN KHÔNG CHẤP THỦ:
Tinh thần “vô chấp thủ” rất là quen thuộc với hầu hết mọi Phật tử Nam Tông và Bắc Tông. Ai cũng hiểu rằng do chấp thủ mà tham ác phát sanh, sân hận sinh, khổ sinh. Ngay cả sự chấp thủ giáo lý giải thoát. Cũng chỉ đem lại ràng buộc khổ đau.
Thế Tôn dạy: “Giáo lý ta như chiếc bè để qua sông chứ không phải để ôm giữ”. Các nơi khác giáo lý Bắc Tạng thường nói: “Nhất thiết Tu đa la như tiêu nguyệt chỉ”.
Thành kiến cố chấp là biểu hiện của chấp thủ, chúng ngăn cản cảm thông tiến bộ và giải thoát.  Hạnh phúc tuyệt đối hay Niết Bàn, theo lời dạy của Thế Tôn là loại bỏ hoàn toàn chấp thủ. Hạnh phúc tương đối của con người trong hiện tại và tương lai tuỳ thuộc vào mức độ loại bỏ chấp thủ ấy, như những gì chứa đựng trong pháp bố thí. Tinh thần vô chấp ấy chẳng những đem lại an lạc cho cá nhân mà còn đem lại an lạc cho tha nhân tập thể.
Nhờ ảnh hưởng tinh thần giáo dục vô chấp này mà đời Lý, Trần thực hiện được sự đoàn kết keo sơn của dân tộc, thống nhất tam giáo. Nhờ vô chấp, mà Trần Quang Khải đã sánh vai với Trần Hưng Đạo bỏ mối thù nhà hẹp hòi để lo việc nước. Ở đâu có vô chấp, ở đó có cảm thông đoàn kết và thương yêu. Đây là một tinh thần giáo dục nhân dân được vận dụng vào mục tiêu đoàn kết dân tộc.
15- TINH THẦN TUỲ DUYÊN BẤT BIẾN:
Đây là tinh thần xử sự, hành động uyển chuyển, thích nghi với hoàn cảnh sống tuỳ thời, tuỳ chỗ, tuỳ người (tuỳ duyên) miễn là sự uyển chuyển linh động ấy mang lại điều tốt đẹp cho mình và người (Bất biến). Nói khác đi, hình thức và phương tiện hành động có thể uyển chuyển nhưng dụng ý và kết quả của hành động phải là Thiện, đúng pháp. Thái độ sống này luôn luôn không rời khỏi lòng Từ bi, lòng nhân và luôn luôn được soi sáng bởi trí tuệ hay chánh kiến. Nắm được hành động này là nắm được cái trục quay của sự sống. Chiếc áo không quan trọng mà quan trọng ở tấm lòng, cái tâm của con người giữ lòng mình hợp đạo là ý nghĩa bất biến, linh động hoà mình vào cuộc sống là ý nghĩa tuỳ duyên.
Trong văn học Trung Quốc, tư tưởng của Khổng Tử,  Lão Tử cũng nói lên cái tinh thần xử sự tuỳ duyên này, như đoạn: “Quân tử tố kỳ vị như hành, bất nguyện hồ kỳ ngoại, Tố phú quý hành hồ phú quý, Tố bần tiện hành hồ bần tiện, Tố di dịch hành hồ di dịch, Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn, Quân tử v”nhập nhi bất tự đắc yên”. Đạo xử thế của người quân Tử, trung với vua, kính thờ cha mẹ. Làm bổn phận người quân tử thì: “Quân tử thì theo cái địa vị mà hành động, không muốn điều gì ở ngoài cái cảnh ngộ, gặp cảnh ngộ phú quý thì ứng xử theo phú quý, bần tiện thì hành động theo cảnh ngộ mọi rợ, lâm nạn thì hành động theo cảnh ngộ hoạn nạn. Người quân tử không ở vào cảnh ngộ nào, mà tự mình không có cái thú vậy”.
Ở hành động tinh thần tuỳ duyên phá vỡ tính câu nệ cố chấp, và tinh thần này được đảm bảo giá trị nhờ động cơ của tâm lý hành động và nhờ chủ đích mà hành động nhắm đến.
Tinh thần giáo dục tuỳ duyên bất biến, là tinh thần tích cực, giúp con người thời đại có nhiều biến đổi nhanh chóng, có điều kiện rộng rãi để hành động thích nghi với những nhân duyên mới, khai thông được nhiều bế tắt do chủ nghĩa đem lại.
Phật giáo có nghĩa tương đương với tinh thần tuỳ duyên bất biến là: “Phương tiện thiện xảo”mà Thế Tôn đã vận dụng để dẫn dắt các đệ tử đi dần vào giải thoát. Tinh thần phương tiện lại được làm sống lại ở kinh Pháp Hoa phẩm phương tiện.
16- TINH THẦN LỤC HOÀ VÀ TỨ NHIẾP PHÁP:
Hoà là phương pháp tu nhân xử thế, là phương pháp chỉ đạo đời sống tập thể.
Thế Tôn dạy nguyên tắc Lục Hoà- kinh Xà Di Thôn, chỉ rõ nguyên tắc chung của chư Tăng gồm có sáu điểm.
1/ Thân hoà đồng trú:  Có sự hoà hợp, hợp lý về chỗ làm ăn, chỗ ở, tức khéo an trú thân nghiệp.
2/ Khẩu hoà v”tránh: Lời nói hoà hợp không tranh cải, khéo an trú khẩu nghiệp.
3/ Giới hoà đồng tu: Cùng nhau giữ gìn một giới luật chung, an trú giới, giữ thanh tịnh giới.
4/ Lợi hoà đồng quân:  Cùng san sẽ các lợi dưỡng.
5/ Ý hoà đồng duyệt:  An trú ý nghiệp, hoà hợp thống nhất.
6/ Kiến hoà đồng giải: Cùng với các vị đồng tu nuôi dưỡng những tri kiến thánh thiện, đưa đến xuất ly. Thế Tôn dạy Tôn giả A-Nan, sáu pháp hoà này sẽ đưa đến đoàn tụ không tranh luận, hoà hợp, đồng nhất và đưa đến cho con người an lạc và hạnh phúc lâu dài.
Nếu ứng dụng nguyên tắc “lục hoà”vào sinh hoạt trong các nhóm hay tập thể, chúng ta thấy thích ứng với các nguyên tắc tâm lý mà các nhà giáo dục tâm lý hiện đại giáo dục cho các sinh hoạt tập thể.
Bài học thứ 1: Thân hoà đồng trú, nếu áp dụng vào một tập thể thì sẽ giúp cho mọi người đoàn kết thân mật, gần gũi nhau hơn, không phân rẽ thành những nhóm do xấu đẹp sang hèn khác nhau.
Bài học thứ 2: Khẩu hoà v”tranh. Trong sinh hoạt tập thể, trong những giờ bàn bạc thảo luận, mọi người cần được giáo dục nguyên tắc khẩu hoà, biết cách phát biểu ý kiến của mình nhưng đồng thời cũng phải biết tôn trọng ý kiến của kẻ khác, không được nặng lời chỉ trích, đả kích  v.v... Thái độ  chỉ trích, đả kích đem lại không khí nặng nề, bất hoà cho sinh hoạt tập thể và làm trở ngại nội dung của đề tài thảo luận. Trái lại trong không khí hoà hợp tương kính của thảo luận mọi người sẽ đón nhận được cảm giác an ổn hạnh phúc của sinh hoạt tập thể.
Bài học thứ 3: Là giới hoà. Sự khác biệt về tin ngưỡng hay tư tưởng là sự khác biệt của màu áo về tâm hồn. Tuy rằng mọi người mỗi ý nghĩ, mỗi hoàn cảnh khác biệt nhau, nhưng có cùng chung một chí hướng. Chí hướng ấy là đưa đến hạnh phúc an vui, nhưng muốn được mục đích an vui mọi người phải cùng chấp nhận chung một con đường dẫn đến, con đướng ấy được mệnh danh là giới hoà. Trong một tổ chức, một đoàn thể nào cũng cần phải có trật tự, tất nhiên phải có quy luật hẳn hoi. Vậy trong đạo Phật, mỗi Phật tử tuỳ theo địa vị tu học của mình mà lãnh thọ nhiều hay ít giới luật như vậy mới cùng nhau đi trên con đường một chí hướng.
Bài học thứ 4 lợi hoà: Về nguyên tắc lợi hoà, đem lại quyền lợi vật chất đồng đều cho mọi người, khiến mọi người an tâm phục vụ, an tâm làm trọn bổn phận của mình, và dễ chấp nhận thực hành và phát triển các nguyên tắc trên (thân hoà, khẩu hoà, giới hoà).
Bài học thứ 5 ý hoà đồng duyệt: Trong  3 nghiệp, ý nghiệp là hệ trọng hơn cả, ý là động cơ điều khiển thân hành động, miệng nói ra lời. Vì thế cho nên trong một tập thể, một gia đình mỗi người cần phải giữ gìn ý tứ tâm địa của mình. Nếu ý tưởng hiền hoà vui vẻ thì thân và lời nói dễ giữ được hoà khí. Trái lại nếu ý tứ bất hoà thì thân và khẩu khó mà giữ được sự hoà hoản.
Bài học thứ 6 kiến hoà đồng giải: Trong sự sống chung mỗi người hiểu biết được điều gì hay tốt đẹp, thì đem giải bày cho nhau hiểu, như thế trình độ không chênh lệch sự tu học mới mau tinh tiến, tinh thần bình đẳng mới dễ giữ vững giữa những người cùng ở. Thực hiện kiến hoà giúp các vị đồng tu nuôi dưỡng những tri kiến thánh thiện, đưa đến xuất ly.
Hoà là bài học quan trọng, cần áp dụng cho mọi tập thể dù lớn hay nhỏ, khi nói đến hoà là người ta xác nhận sự bất đồng là điều kiện không tốt trong mọi tình huống, hoà mà không đồng thì đánh mất mọi ý nghĩa của nó.
Vì thế để việc lãnh đạo tập thể đem lại lục hoà một cách thiết thực, Thế Tôn lại dạy nguyên tắc “tứ nhiếp”là nguyên tắc ứng dụng thành công tốt đẹp trong việc lãnh đạo mọi tập thể cũng như muốn cá nhân nào trở về với mình.
Tuỳ theo trình độ, cá nhân và nhu cầu của mỗi cá nhân mà biện pháp tâm lý, để nhiếp hoá, thu phục được thể hiện khác nhau.
Đối với những ai cần sự giúp đỡ về mặt vật chất, kiến thức, an ủi, kinh nghiệm sống, kinh nghiệm tu học, thì chúng ta áp dụng nguyên tắc “Bố thí”. Do có sự giúp đỡ mà sự thông cảm, cảm mến có mặt. Do có sự hiểu biết cảm mến chúng ta dễ dàng thu phục được những cá nhân này và giảng dạy cho họ có kết quả.
Đối với những ai tâm lý thích “ái ngữ “thích những lời nói dịu dàng hoà ái, thành thực, khôn khéo .... thì chúng ta dùng “ái ngữ”để cảm hoá nhiếp phục họ. Thông thường mọi người thích ái ngữ và khó chịu với những lời nói nặng nề, thiếu tế nhị v.v... người lãnh đạo muốn thành công phải biết “vận dụng ái ngữ”.
Với những ai cần “lợi hành”cần khích lệ cần phải giúp đỡ trong công việc thì chúng ta đáp ứng họ. Do lợi hành đưa đến cảm mến và chịu sự lãnh đạo.
Với những tâm lý nào cần phải cùng làm việc, cùng ăn, cùng ở v.v... cần có thời gian gần gũi thì chúng ta cần áp dụng nguyên tắc “đồng sự”, có giống với người, có cùng làm, cùng lo chung công việc mới có điều kiện để chia xẻ, tìm hiểu cảm thông. Từ đây tình cảm tốt đẹp tương giao tốt nảy sanh. Có đồng sự thì dễ nói cho nhau nghe hơn, do đó người lãnh đạo mới có thể gây ảnh hưởng của mình dễ hơn.
Với những ai cần phối hợp các nguyên tắc trên để nhiếp hoá thì người lãnh đạo tuỳ duyên mà vận dụng. Trong nghệ thuật vận dụng tâm lý để đạt mục tiêu giáo dục cũng không làm gì khác hơn ngoài 4 nguyên tắc tứ nhiếp pháp trên.
17- TINH THẦN GIÁO DỤC NÊU THÍ DỤ CỤ THỂ:
Nhà giáo dục khéo giảng dạy, khéo làm cho học viên chóng hiểu những gì mình dạy. Một nội dung giảng dạy tốt, nếu không được truyền đạt bằng một kỹ thuật tốt thì việc giáo dục chưa hoàn hảo.
Đức Thế Tôn trong phương pháp giảng dạy của Ngài, Ngài vừa ứng dụng nguyên tắc “khế cơ”, “khế thời”, “khế lý”vừa khích lệ, lại vừa vận dụng các thí dụ với các hình ảnh cụ thể quen thuộc với người nghe để soi sáng cho người nghe dễ hiểu điều Ngài muốn nói.
Thật là phong phú với rất nhiều hình ảnh và ví dụ trong kinh điển Nam Tạng và Bắc Tạng Phật Giáo.
Đức Thế Tôn ví dụ lời dạy của Ngài như chiếc bè để qua sông, như ngón tay chỉ mặt Trăng, hay giáo lý như bản thân để chỉ đường.
Nói đến hương vị và sắc thái đặc biệt của nội dung giáo lý. Thế Tôn dạy: “Như biển chỉ có một vị mặn của muối, cũng thế giáo lý của ta chỉ có một vị là vị giải thoát”.
Các tên kinh Nam Tạng và Bắc Tạng cũng đều nói lên những hình ảnh ví dụ như tên kinh Phạm Võng, Xà dụ, Gò mối, Khúc gỗ, Kim Cương, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v... Thế Tôn đã sử dụng phương pháp giảng dạy rất sống động, cụ thể, dễ hiểu hấp dẫn, thu hút sự chú ý của người khác và có tác dụng đánh vào tâm  thức của người nghe. Kèm theo với những phương pháp này,Thế Tôn còn giảng những đề tài có chuyên sự bối cảnh sống động của nó khiến cho sự giảng dạy tác dụng càng hữu hiệu hơn.
Ví dụ như câu chuyện ở Kosampi, bên bờ sông Hằng, khi thấy một khúc gỗ lềnh bềnh trên mặt nước, Thế Tôn gọi các thầy Tỳ Kheo lại chỉ khúc gỗ và dạy về con đường giải thoát. Ngài dạy: “Nếu khúc gỗ không hư nát trong ruột, không tấp vào hai bên bờ, không vướn vào nước xoáy, không bị người hay vật vớt, không tấp vào cồn bãi thì nhất định khúc gỗ sẽ trôi thẳng ra biển. Cũng thế người tu nếu không như khúc gỗ hư ruột (chấp tà kiến) không tấp vào hai bên bờ (không chấp có, chấp không)(hoặc vướn vào căn và trần), không mắc vào nước xoáy (rơi vào 5 dục) không bị người vật vớt (không ràng buộc bởi người cư sĩ). Không tấp vào cồn bãi (ngã mạn), không bị phi nhơn và chư thiên nhặt (không cầu sanh thiên hưởng phước lạc) thì nhất định người tu sẽ trôi thẳng về biển thánh, thành tựu phạm hạnh, chứng ngộ giải thoát Niết Bàn.
Ví dụ ở kinh Pháp Hoa và pháp cú như bài kệ.
Như mái nhà vụng lợp.
Mưa có thể thấm vào.
Cũng vậy tâm không tu.
Tham dục dễ thâm nhập.
Các hình ảnh ví dụ sống động ở các kinh, tuy khác nhau nhưng tất cả đều phục vụ nói lên diệu lý của kinh tạng.
Phương pháp giảng dạy bằng nhiều thí dụ của Đức Thế Tôn, là một phương pháp rất khoa học và rất tâm lý, khiến cho việc giảng dạy đem lại nhiều kết quả tốt đẹp, có thể nói đây là phương pháp rất mẫu mực, mà các phương pháp giáo dục của thế gian này cũng cần áp dụng để đem lại hiệu quả tốt cho việc giáo dục và đào tạo con người hoàn hảo.
Đức Thế Tôn đã xuất hiện như một nhà giáo dục vĩ đại, rất nhân bản và lý tưởng qua các tinh thần và phương thức giáo dục đã được trình bày ở trên./.
***    ***     ***
Tổng cọng cú 16 cách giáo dục của Thế n: Như
  1/ Mục tiêu giáo dục – 2/ Tinh thần trách niệm cá nhân – 3/ Giáo dục cá nhân -4/ Tinh thần giáo dục thực tiễn- 5/ Tinh thần giáo dục phê phán- 6/Tinh thần hướng dẫn  -7/ Tinh thần khích lệ - 8/ Tinh thần tự tín tự chủ - 9/ Tinh thần độc lập trừ nô lệ  -10- /Giáo dục con người toàn diện- 11/ Giáo dục đánh thức -12/ Giáo dục thiền định  - 13/Tinh thần giáo dục trung đạo – 14 Giáo dục tinh thần không chấp thủ - 15 Giáo dục tùy duyên bất biến  16- Tinh thần lục hòa và tứ nhiếp pháp.
Soạn theo PPCB Quyển IV -Bài của Thích Chơn Thiện.
      04-10-1998 (vi tính 15-5- giáp thân -  2-7-2004

         Đ.Đ Thích Thiện Phương  biên soạn và hướng dẫn

CÁC TINH THẦN GIÁO DỤC CỦA ĐỨC THẾ TÔN Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét