PHÁP SƯ TUYÊN HÓA
Pháp sư Tuyên Hóa được xem là nhà truyền bá Phật giáo Trung Hoa thành công nhất trên đất Mỹ ở cuối thế kỷ 20. Pháp sư sinh ngày 26/4/1918 (16-3 năm Mậu Ngọ) tại làng Kiết Lâm, Mãn Châu thuộc vùng Đông Bắc, Trung Hoa. Trong một gia đình có 8 người con. Ngài là con út, gia đình có truyền thống kính tín Tam Bảo. Mẹ ngài ăn chay trường và tu theo pháp môn niệm Phật. Trước khi ngài chào đời, mẹ ngài có một giấc mơ kỳ lạ. Một đêm nọ, bà thấy một luồng hào quang của Đức Phật A Di Đà chiếu sáng khắp mọi nơi và làm chấn động đất trời. Giật mình thức dậy bà ngửi thấy mùi thơm kỳ diệu lan tỏa khắp trong phòng. Không lâu sau đó bà đã hạ sanh ngài.
Xuất gia tu học:
Vào năm 11 tuổi, trong một lần băng qua cánh đồng gần ngôi làng, ngài thấy tử
thi của một đứa bé trẻ nằm dưới đống rơm. Ngài chưa từng thấy người chết trước
đó nên hỏi mẹ, và mới biết đó là cái chết, là sự hủy hoại của một kiếp người.
Trong tâm trí non nớt, bất giác ngài suy nghĩ có cách nào để thoát khỏi sự chết
chăng; và ngài được một người quen khuyên rằng: “chỉ có một con đường duy nhất
để thoát chết, là tu tập theo con đường Đạo để giác ngộ bản tâm và biết rõ được
bản lai diện mục của mình “Do đó ngài muốn xuất gia đầu Phật để thực hành con
đường đạo trọn vẹn.
Ngài
bày tỏ ý nghĩ cao đẹp này với mẹ và được mẹ khuyên rằng:”Xuất gia là chuyện
tốt, nhưng cũng không phải là chuyện dễ làm. Cần phải có thiện căn, phải có đại
nguyện lực, phải phát đại Bồ đề tâm thì mới có thể thành tựu. Nay con phát tâm
như vậy, mẹ hết lòng ủng hộ và điều này cũng khế hợp với giấc mơ của mẹ năm
xưa. Tuy nhiên, nay mẹ đã già, ngày tháng không còn bao lâu nữa, các anh chị
của con đều đã tự lập, con nên ở lại để phụng dưỡng cha mẹ tuổi già, khi cha mẹ
mãn phần rồi, con xuất gia cũng không muộn ”
Ngài
vâng lời mẹ và ở lại phụng dưỡng cha mẹ. Ngày, ngày ngài theo mẹ tu pháp môn
niệm Phật và lạy Phật sám hối tiêu trừ nghiệp chướng. Đến năm 19 tuổi mẹ ngài
qua đời, ngài đến Hòa Thượng Thường Trí chùa Tam Duyên đảnh lễ xin xuất gia. Ngài tu rất miên mật
tinh tấn tọa thiền, niệm Phật tụng kinh và lạy sám hối. Ngài chỉ ăn ngày một
bửa, có lúc nhập định cả ba ngày liên tục, có khi đến một tuần mới xả thiền.
Năm
1947, sau đệ nhị thế chiến (1939-1945) Ngài mới bắt đầu vân du hoằng pháp. Ngài
đến chùa Hoa Nam để bái kiến Thiền sư Hư Vân, lúc ấy Thiền sư Hư Vân đã 109 tuổi. Thiền sư Hư Vân vừa nhìn thấy
ngài thì liền nhận ra hoa trái tu tập của ngài trong thời gian qua. Thiền sư Hư
Vân nói: “Như thị, như thị” và ngài cũng đáp lại: “Như thị , như thị ”. Thiền
sư Hư Vân liền ấn chứng sở đắc của ngài và ngài chính thức trở thành Tổ thứ 9
của Thiền phái Quy Ngưỡng và là vị Tổ thứ 49 của Thiền tông Ấn Hoa.
Đạo nghiệp của ngài ở Hồng Kông: Mùa hè năm
1949, cuộc cách mạng trong nước bùng nổ, ngài đến tỵ nạn ở Hồng Kông. Đến nơi
ngài đến một sơn động kiết già nhập định trong hai tuần. Lúc bấy giờ đoàn người
tị nạn từ Hoa Lục kéo sang Hồng Kông ngày càng đông. Ngài phải rời hang động và
tạo ngân quỹ để cứu giúp người dân. Hồng Kông là mãnh đất của Gia Tô giáo nắm
giữ từ năm 1842 khi đế quốc Anh xâm chiếm xứ này. Do đó mọi việc Phật pháp phải
làm lại từ đầu. Trong 12 năm hoằng pháp tại Hồng Kông, ngài xây dựng chùa Tây
Lạc Viên, chùa Từ Hưng Thiền và một giảng đường. Ngài tổ chức in ấn kinh sách
và thuyết pháp giảng kinh cho quần chúng. Ngài cho xuất bản từ báo Tâm Pháp để
phổ biến giáo lý, và thuyết giảng các bộ kinh như Hoa Nghiêm, Địa Tạng, Di Đà,
Kim Cang v.v Chính nhờ các pháp hội này mà Phật giáo đã nhanh chóng lan tỏa và
phát triển mạnh ở Hồng Kông trong một thời gian ngắn.
Tại Úc Châu: Năm 1959 ngài được tin Thiền sư Hư Vân viên tịch ở
Trung Hoa, thọ 120 tuổi. Ngài từ giả Hồng Kông
và đến hoằng pháp ở Úc Châu. Tại đây ngài được mời dạy Hoa ngữ tại một
đại học ở Sydney và tổ chức thuyết pháp giảng kinh cho Phật tử trong cộng đồng
người Hoa ở New South Wales. Năm 1961,
ngài được hội Phật giáo tại tiểu bang Victoria cung thỉnh về chứng minh Đại lễ Phật Đản và thuyết giảng
trong dịp này. Cuối năm 1961 ngài lên đường đến California, Hoa Kỳ tiếp tục sứ
mạng hoằng pháp độ sanh.
Tại Mỹ Châu: Tại San Francisco, Ngài sống và tu tập trong một căn
hộ nhỏ ở khu có đông người Hoa. Ở đây ngài ẩn nhẫn tu tập thiền định, chờ cơ
duyên thuận lợi để ra hoằng pháp. Thời gian đầu ngài chỉ biết trong cộng đồng
người Hoa, nhưng lần lần giảng đường của ngài có nhiều người Mỹ đến nghe pháp,
đặc biệt nhiều sinh viên người Hoa và Mỹ cũng đến nghe pháp. Năm 1968, ngài mở
một giảng đường để thuyết pháp tại lầu 4 của chung cư Waverly, nơi đây đã từng
là một ngôi đền của đạo Lão và ngài bắt đầu thuyết giảng kinh Lăng Nghiêm, pháp
hội này kéo dài 96 ngày. Đặc biệt trong
pháp hội này có 30 sinh viên đến từ Đại học Washington ở bang Seattle để nghe
pháp. Và sau khóa tu có năm sinh viên
người Mỹ phát tâm xuất gia.
Mùa đông 1969,
ngài cho trùng tu lại ngôi giảng đường và đặt tên là Kim Sơn. Kim Sơn là danh
hiệu của một ngôi chùa ở Trung Hoa. Mọi sự sinh hoạt tại đây đều theo truyền
thống của Phật giáo Trung Hoa. Cũng trong năm này ngài thành lập Viện Dịch
Kinh, một tổ chức chuyên trách về việc phiên dịch và in ấn kinh điển và đã xuất
bản trên 200 dịch phẩm, trong đó phần
lớn dịch sang tiếng Anh, tiếng Việt và tiếng Tây Ban Nha. Ngày 7 tháng 7 năm 1972, ngài mở Đại giới đàn
để truyền giới cho 200 Tăng Ni ở Mỹ và
các nước lân cận về thọ giới trong dịp này, đặc biệt trong đó có năm vị Tăng sĩ
người Mỹ. Giới đàn kéo dài 108 ngày.
Năm 1974, ngài mua lại một bệnh viện ở
California để thành lập Vạn Phật Thánh Thành. Đây là cơ sở hoằng pháp vĩ đại
nhất từ trước đến nay tại Mỹ với diện tích rộng 488 mẫu (rộng gấp 25 lần Tòa
Bạch Ốc) Bệnh viện này do chính quyền tiểu bang Califonia xây dựng từ năm 1930,
với tất cả vật liệu kiến trúc và các thiết bị bên trong đều thuộc loại thượng
hảo hạng. Toàn bệnh viện có hơn 70 tòa nhà thuộc loại công trình kiến trúc lớn,
trên 2.000 phòng, 3 sân chơi bóng chày, 1 trạm cứu hỏa, 1 hồ bơi, 1 lò đốt rác,
cùng nhiều thiết bị cung cấp nước chữa lửa nằm rãi rác dọc vệ đường. Một con
đường tráng nhựa ngoằn nghoèo ăn thông với các ngả, hai bên có trụ đèn đường và
nhiều cây cổ thụ hơn cả trăm năm. Tất cả
các ống dẫn nước, mạng nối các thiết bị điện, hệ thống dẫn điện dùng cho
máy sưởi và máy lạnh đều được thiết kế
dưới mặt đất. Các công trình đều được nghiên cứu một cách cẩn thận về cả
mặt thiết kế lẫn vật liệu
Toàn khu bệnh viện có đủ chổ cho hơn 20.000
người cư trú. Vào giữa năm 1970, tiểu bang California gặp phải một trận đại hạn
hán vô tiền khoáng hậu, nạn thiên tai này đã ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng đến
sinh hoạt của bệnh viện này. Chính phủ có mời công ty đào giếng nổi tiếng nhất
ở Mỹ đến đào nhưng không có nước. Chính phủ lâm vào cảnh bế tắc, đành phải
chuyển bệnh nhân đi nơi khác và bán bệnh viện này với giá rẻ.
Sau khi mua lại bệnh viện này, Pháo sư Tuyên
Hóa đã tái tạo thành Vạn Phật Thánh Thành. Nhằm giải quyết nạn khan hiếm nước,
ngài đã dùng tuệ nhãn để xác định vị trí nước ngầm, và công việc này đã thành
công. Đây là một sự kiện bất khả tư nghì, và cho đến hôm nay, mỗi khi nhắc lại
sự kiện này mọi người đều thấy vui, xúc động pha lẫn hào hứng.
Vạn Phật Thánh Thành là nơi hội tụ của những người có
đạo đức, trí tuệ chân chính. Tại đây tuyệt đối không có sự phân biệt, chia rẽ,
Nam -Bắc tông đều thông giao, văn hóa Đông Tây đều hòa hợp, nhân sĩ trên thế
giới xem đây là một cõi để quay về của tự tâm. Pháp sư Tuyên Hóa đã khẳng định
rằng “Vạn Phật Thánh Thành không phải là
một cơ sở của tư nhân, nó thuộc quyền sở
hữu của tất cả Phật tử trên thế giới, kể cả tín đồ của các tôn giáo khác ”.
Tại Vạn Phật Thánh Thành, Pháp sư Tuyên Hóa
chủ trương phục hồi giới luật như thời Phật còn tại thế. Tăng Ni phải giữ gìn
oai nghi tế hạnh và thọ trai mỗi ngày một lần, không nên ăn sau giờ ngọ. Tự
thân Pháp sư thực hành trong suốt đời ngài và khuyến giáo chúng đệ tử nghiêm
trì các hạnh này. Pháp sư khích lệ các đệ tử nên ngồi thiền mà không nằm vào
ban đêm. Đời sống tại Vạn Phật Thánh Thành được áp dụng cho cả năm tông phái
lớn của Phật giáo Trung Hoa, đó là Luật tông, hành giả thọ trì 250 giới Tỳ
kheo, 348 giới Tỳ kheo Ni, 5 giới dành cho phật tử tại gia. Thiên Thai tông
chuyên chú đến việc học kinh và tụng kinh. Mật tông thọ trì thần chú và các mô
Đà La ni. Tịnh độ tông tụng kinh và niệm danh hiệu Phật A Di Đà, và Thiền tông
bao gồm tọa thiền và tham công án.
Đặc biệt pháp sư Tuyên Hóa khuyên dạy các đệ tử phải tinh tấn thọ trì
sáu nguyên tắc sống (lục đại tông chỉ) mà chính điều đó đã giúp ngài thành tựu
đạo nghiệp, đó là: Không tranh, không
tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi và không nói dối. Ngài đã
làm bài kệ nói lên sự quyết tâm tu tập của mình cũng như khuyến giáo tứ chúng: “Dù rét chết, không phan duyên, dù đói chết,
không van nài, dù nghèo chết, không cầu cạnh,. Tùy duyên, không đổi, không đổi,
tùy duyên, ba tông chỉ ấy, ta phải giữ gìn, xả thân vì Phật sự”.
Lời kết: Pháp sư Tuyên Hóa cũng nổi danh về
đức khiêm cung vô ngã và lòng từ bi vô biên đối với chúng sanh. Ngài chuyên
hành trì hai pháp tu khắc kỷ là ngủ ngồi và ăn ngày một ngọ. Ngài hành đạo
không biết mỏi mệt cho đến suốt đời . Ngài đã viên tịch vào ngày 10-5- năm Ất
Hợi (7/6/1995) thọ 78 tuổi, tại Vạn Phật
Thánh Thành, Los Angeles California, Hoa Kỳ. Thừa hành di huấn của ngài tứ
chúng đệ tử các đạo tràng đều chuyên tâm
thọ trì kinh Hoa Nghiêm và niệm Phật trong suốt 49 ngày. Sau lễ trà tỳ,
tro cốt của ngài được rãi trên khuôn viên Vạn Phật Thánh Thành đúng như lời di
giáo của ngài: “Khi tôi đến, tôi không có gì cả, khi tôi đi, tôi vẫn không có gì
cả. Tôi không muốn để lại đấu vết gì trên thế gian. Tôi từ hư không đến. Tôi sẽ
trở về hư không”. Sự ra đi của ngài như mặt trời khuất bóng khiến ai cũng
thương cảm thống thiết. Cuộc đời tu tập và hành đạo của ngài là một tấm gương
sáng ngời cho tất cả chúng sanh. Với tinh thần từ bi, trí tuệ và tận tụy với
chúng sanh, ngài cảm hóa được vạn người trở về với Chánh pháp theo con đường
thanh tịnh và giải thoát. Hy vọng sự nghiệp giáo hóa của ngài sẽ được duy trì
và ngày càng phát triển hơn nữa trên
nước Mỹ./.
(Trích: VHPG-15-4-2017
- Thích Nguyên Tạng )
{—]–{
Thỏa mãn một ham muốn nó chỉ là giải pháp nhứt thời,
chứ không đoạn trừ ham muốn. Như kẻ khát nước, uống nước muối, càng uống càng
cảm thấy khát thêm.
Người đệ tử Phật phải vì lợi ích chứ đừng lợi nhuận,
vì tiền bạc, vật chất là của năm nhà, nếu không chịu thua thiệt thì sẽ chịu quả
báo đau khổ.
{—]–
0 nhận xét:
Đăng nhận xét