Kinh
Nhất Dạ Hiền thuộc Trung Bộ Kinh nói:
“Quá
khứ không truy tìm - Tương lai không ước vọng
Quá
khứ đã đoạn tận - Tương lai chưa đến
Chỉ
có pháp hiện tại - Tuệ quán chính là đây.
Đoạn kinh trên chỉ dạy một điều duy nhất là “Diệt
trừ các cảm thọ cũ – không cho khởi lên các cảm thọ mới”. Cảm thọ tức là cảm
giác gồm có ba loại là cảm giác vui, cảm giác khổ và cảm giác không vui không
khổ. Tại sao chúng ta phải diệt trừ các cảm giác? Bởi vì cảm giác là biểu hiện
của sự tham ái, tham luyến, khát ái, dính mắc và sở hữu, là những yếu tố,
nguyên nhân động lực thúc đẩy chúng sanh, dẫn dắt chúng sanh, lôi kéo chúng
sanh vào sanh tử luân hồi. Như người nghiện rượu, thì tự nhiên anh ta tìm đến
quán rượu, người nghiện hút thuốc tự tìm
thuốc để hút cho thỏa mãn cơn nghiện của mình, chứ không ai ép anh ta hút cả.
Do chúng sanh tham đắm “thú vui trần thế” cho nên chúng sanh tự nguyện đi vào
trần thế để hưởng thụ. Cứ như thế mà tái sanh hết kiếp này lại kiếp khác, kiếp
khác nữa, không bao giờ dứt. Như vậy, cảm giác chính là nguyên nhân của sanh tử
luân hồi không dứt. Cảm giác cũ sanh ra cảm giác mới, cảm giác mới củng cố cảm
giác cũ và lại sanh ra cảm giác mới nữa, cứ như thế liên tiếp mãi không dừng.
Cảm giác còn gọi là vọng tưởng, mỗi một cảm giác là
một hạt giống, hạt giống vọng tưởng gieo vào tạng thức như một cái kho chứa
đựng tất cả các hạt giống. Các hạt giống này nằm đó chứ không mất, và chúng
luôn luôn tương tác với cảnh bên ngoài để tạo ra hạt giống mới. Các cảm giác
vọng tưởng này chúng luôn luôn sanh khởi liên tục. Đây là cái mà chúng ta gọi
là “những cảm thọ cũ”. Khi vọng tưởng này hay những cảm giác cũ khởi lên, nếu
ta chạy theo thì coi như ta đã tiếp tay cho chúng, ta đã cung cấp thêm cho
chúng nhiên liệu để chúng mạnh thêm. Bằng ngược lại ta không chạy theo chúng
thì coi như chúng bị vô hiệu hóa, chúng yếu dần và chết đi.
Tất cả pháp môn Phật dạy đều là để làm cái việc này.
Chúng ta phòng hộ các căn không chạy theo cảnh bên ngoài, chúng ta chú tâm tỉnh
giác những hành động, cử chỉ việc làm của mình (Khi làm việc gì chúng ta chú
tâm vào việc ấy mà không nghĩ những việc khác). Nhờ thực tập chánh niệm, tỉnh
giác và an trú trong hiện tại mà cảm thọ cũ không có cơ hội sanh khởi, và cũng
không thể phát sanh những cảm giác mới. Có thể nói, đây là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt các pháp môn tu tập của Phật giáo. Cách này Phật giáo Tiểu thừa gọi là
triệt tiêu hay tiêu trừ cảm giác cũ.
Cách thứ hai: Phật giáo Đại thừa gọi là chuyển hóa.
Phật giáo Nguyên thủy dạy tiêu diệt hạt giống, thì Phật giáo Đại thừa dạy ta
chuyển hóa chúng, chuyển hóa như thế nào? Bằng cách gieo vào tâm thức càng
nhiều hạt giống tích cực càng tốt. Cách thứ nhất là áp dụng hai phần trước của
Tứ Chánh Cần: Điều ác chưa sanh thì đừng để sanh, điều ác đã sanh rồi thì tìm
cách diệt. Cách thứ hai này là sự ứng dụng của hai phần sau của Tứ Chánh
Cần: Điều thiện chưa sanh thì làm cho
sanh, điều thiện đã sanh thì làm cho tăng trưởng. Cụ thể là phương pháp lục độ
của Bồ tát đạo là để hóa độ chúng sanh và làm lợi ích chúng sanh. Đối với Duy
Thức Học, tu hành cũng là một sự chuyển hóa, chuyển thức thành trí, Chuyển Tiền
ngũ thức thành Thành Sở tác trí, Chuyển Ý thức thành Diệu Quang Sát Trí, chuyển
Mạt Na thức thành Bình Đẳng tánh trí và chuyển A Lại Da thức thành Đại viên
cảnh trí. Sự chuyển hóa này nói một cách nôm na là chuyển tham ái thành từ bi,
chuyển tình yêu ích kỷ thành tình yêu tất cả chúng sanh.
Các pháp tu
này được thể hiện một cách thống nhất và thông suốt giữa các truyền thống tu
tập trong Phật giáo. Dù cho Nguyên Thủy, Đại thừa, Thiền hay những phát triển
của Phật giáo về sau như Duy thức tông chẳng hạn… Tuy trình bày bằng những hình
thức khác nhau, nhưng chỉ để diển đạt một vấn đề mà thôi. Trong kinh Phật dạy
giáo pháp của Như lai dạy như mật trong chén. Dù mật ở giữa chén hay ngoài biên
vẫn ngọt như nhau. Lại nói: nước bốn biển rộng bao la nhưng chỉ có một vị mặn.
Giáo pháp của Phật tuy nói ra nhiều nhưng cũng chỉ có một vị, đó là vị giải
thoát mà thôi.
Vô ngã là
giáo lý căn bản của Phật giáo. Các tập khí lâu đời tích tụ lại chúng ta gọi là
bản năng. Sự tu tập là chuyển hóa bản năng tiêu diệt bản năng. Khi bản ngã còn
thì bản năng sinh khởi. Mọi thứ luôn luôn trôi chảy và chuyển biến , không có
gì gọi là “bản “ở đây cả, dù là “bản thiện “bay “bản ác “cái gọi là Bản năng đó
chẳng qua là một sự tích tụ lâu đời các tập khí. Như phù sa tích tụ thành cồn
bãi, nước đóng lại thành băng. Nếu có cái gọi là Bản năng thì sẽ không có sự
chuyển biến, không có tu tập. Nhưng khi chúng ta hiểu được rằng các pháp do
duyên sanh thì vấn đề giải quyết dễ dàng hơn. Chúng ta có thể tu tập để giải
thoát sanh tử, hoặc chúng ta có thể chuyển thức thành trí, phiền não thành Bồ
đề, nuôi lớn Từ bi và Trí tuệ để vào đời hóa độ chúng sanh như các vị Bồ tát vậy ./.
(Trích: Bản năng: Trung Hữu-
VHPG- 15-4-2017)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét