Ngày xưa khoa học chưa phát triển sự truyền thông
còn hạn chế, nên sự nghe nhìn cũng hạn cuộc, chỉ trên số người biết chữ biết
đọc thì có thể học hỏi Phật pháp. Do đó sự tìm hiểu học hỏi về giáo lý Phật đà
ít người được tiếp cận, được hiểu rõ, nên đã bị các tín ngưỡng dị đoan mê tín
làm lu mờ tinh anh cao quý lời Phật dạy, cùng với sự tác động các tư tưởng duy
vật và các tôn giáo đa thần và nhất thần, làm cho nhiều người hiểu sai đạo
Phật. Họ cho rằng Phật giáo là một tôn giáo mê tín, dị đoan, tiêu cực, lạc hậu,
chán đời v.v...
Ngày nay, khoa học phát triển, sự truyền thông được
phổ cập rộng rãi, nên việc tìm hiểu Phật pháp được nhiều người biết đến khắp cả
năm châu, toàn thế giới không phân biệt ranh giới. Người ta cho rằng Phật học
cũng chính là lhoa học qua các khảo sát và so sánh các lãnh vực văn học, y học,
thiên văn học v.v...
Phật giáo được tồn tại và phát triển đều do sự
truyền bá của các vị cao Tăng và học giả, thông qua kinh điển. Muốn lưu lại lời
Phật dạy, đệ tử Phật xuất gia cũng như tại gia ghi chép lời Phật dạy bằng văn
tự. Rồi lần hồi phiên dịch ra nhiều thứ văn tự tùy theo Phật giáo truyền vào
các nước khác nhau. Phật giáo truyền vào Trung Quốc, các vị vua chúa tin sùng
Phật giáo cho thiết lập ban dịch thuật kinh điển từ văn tự tiếng Phạn qua văn tự tiếng Trung Hoa. Ban dịch thuật rất
quy mô và nghiêm ngặt, số người tham gia dịch thuật cả ngàn người. Lời Phật dạy
ghi chép thành ba tạng Kinh, Luật, Luận. Công trình dịch thuật kinh điển Phật
giáo đã tạo một nguồn gió mới cho văn
học Trung Quốc càng thêm phong phú. Làm giàu thêm ngôn ngữ và văn tự văn học
Trung Hoa năm ngàn từ mới. Cho nên đứng về mặt văn học Phật giáo được xem như một
văn hóa khoa học qua sự khảo sát như sau:
a/ Công
trình dịch thuật: Ban dịch thuật gồm có nhiều thành phần kiểm chứng trong khâu
dịch thuật. Như người dịch chính, người dịch chữ, người viết lại, người kiểm
chứng nghĩa, người sửa văn tự … Trước khi một bộ kinh, luận, luật được đưa ra
phải trãi qua mấy lần kiểm duyệt, hiệu đính, không những chỉ nghĩa lý, tương
đồng với văn chữ Phạn, mà ngay cả một âm nhỏ nhất, cũng phân biệt, tìm hiểu cho
đến nơi đến chốn. Nơi phiên dịch quy mô vĩ đại như thế, đương nhiên phải phân
công hợp tác với nhau làm việc. Phương cách tổ chức hết sức nghiêm mật, xác
thực phù hợp với tinh thần khoa học.
Đạo tràng dịch
thuật của Đại sư Cưu Ma La Thập và Đại sư Huyền Trang chủ trì, với quy mô vĩ
đại, người tham gia đến số hàng ngàn người.
Pháp Sư Đạo An chính lý toàn bộ kinh Phật thành ba phần lớn đó là: Phần
tự, phần Chánh tông và phần Lưu thông. Và mỗi một bài kinh lại mở đầu phải đầy
đủ sáu loại chứng tín (lục chủng thành tựu): tín, văn, thời, chủ, xứ và chúng.
Sáu loại chứng tín này nhằm nói rõ đức Như Lai nói bài kinh này vào thời điểm
nào, ở đâu, thính chúng có bao nhiêu. Điều này phù hợp với sáu tiêu chuẩn của
văn học ngày nay: Người nào, việc gì, lúc nào, nơi đâu, để làm gì, giống thứ
gì. Sáu loại này giống như một cuộc họp hay cuộc hội thảo gồm có các thần phần
như sau:
1- Chủ
tọa 2- Thư ký 3-Địa điểm 4- Thời gian 5-.Chủ
đề bàn luận. 6 -số lượng người tham dự. Sở dĩ phải đầy đủ như thế, vì muốn biểu
thị tính chính xác của báo cáo hoặc buổi họp đó. Chúng ta không ngờ rằng hình
thức này đã được chư đệ tử Phật đã sử dụng trong việc kết tập kinh điển cách
đây mấy ngàn năm trước. Cách thức cấu kết này phù hợp với tinh thần khoa học
ngày nay.
Về Y học.
Trong kinh Phật những điều liên quan đến y học như sự phát triển của khoa học
ngày nay. Trước đây 2500 năm đức Phật đã khẳn định trong thân thể con người có
chứa đến 80 loại vi trùng. Kinh Trị Thiền Bệnh Bí Yếu và kinh Chánh Pháp niệm
xứ. Ngày nay nhờ sự phát triển của môn học ký sinh trùng, phát hiện thấy những
ký sinh trùng trong cơ thể con người như giun kim, giun móc, giun nhỏ, vi khuẩn
gây bệnh v.v...khoảng dưới 10 loại. Qua đây có thể khẳng định Đức Phật là bậc
Đại trí, thông qua kết quả quan sát sự vật bằng tuệ nhãn đều chân thật không hư
dối.. Kinh Tu Hành Đạo Địa nói hết sức rõ ràng quá trình thai nhi phát triển
trong bụng mẹ, giống y với thai sinh học của y học ngày nay. Kinh ghi rằng: “Sau
khi thai nhi được hình thành 7 ngày, lúc đầu chưa phát triển, đến tuần thứ 2
thai nhi giống như màng mõng. Đến tháng thứ 6, thai nhi giống như cục thịt
thừa. Đến tháng thứ 9 thai nhi phát triển năm phao và hai khuỷu tay. Đến tuần
thứ 10 tiếp tục phát triển năm phôi, phát triển thêm hai cổ tay, hai cổ chân và
đầu..
Y cứ vào
quá trình thai nhi phát triển của y học, sau khi thai nhi được hình thành hơn
một tháng(khoảng 6 tuần) dài khoản ba phân nặng khoản 10 gam, hình trạng giống
như cục thịt dư. Đến tháng thứ ba (khoảng 10 tuần) thai nhi dài khoản 7.8 phân,
nặng hơn 40 gam.lúc này tứ chi và đầu phát triển, các xương cũng bắt đầu hình
thành, có thể phân biệt được với các loại động vật khác, cho nên gọi là thai
nhi. Điều mà mgười ta không thể tưởng tượng được, trước đây khoản 2500 năm chưa
có máy siêu âm, ấy mà kinh Phật lại ghi rõ một cách tường tận và đầy đủ về sự
hình thành và phát triển thai nhi trong bụng mẹ.
Về thiên văn:
Quá khứ trong quan niệm của con người, không vượt qua khỏi phạm vi địa cầu, như
bình thường nói đi vòng quanh thế giới, chẳng qua đi một vòng quanh quả địa cầu
mà thôi. Trong kinh Phật đề cập đến Tam thiên đại thiên thế giới, tức là 3000
thế giới, mà phải hiểu 1000 tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới. 1000 tiểu
thiên thế giới là một Trung thiên thế giới. 1000 Trung thiên thế giới là một
Đại thiên thế giới. Vì trong đó hàm chứa bội số 3000, do đó gọi là Tam thiên
Đại thiên thế giới.
Quả địa cầu
chúng ta đang ở, chẳng qua chỉ là hạt cát nhỏ trong không gian bao la vô tận.
Ngày nay thiên văn học phát triển chỉ rõ rất nhiều tinh cầu không thể kể xiết
trong dãi ngân hà, khoảng cách giữa các tinh cầu đó cũng rộng lớn rất khó đo
đến một cách chính xác. Qua đây có thể biết vô tận hư không, vô lượng Tam thiên
Đại thiên thế giới mà kinh Phật nói đến, đều có căn cứ chẳng phải phỏng đoán.
Học giả La
Thạch Cầm nói rằng: “Tôi cho rằng đề xướng Phật học, chẳng những không chống
trái khoa học, ngược lại có khả năng giúp phương pháp nghiên cứu của khoa học
sâu thêm một cách tinh yếu và bí mật, giúp cho việc phân loại của khoa học thêm
phần chính xác, giúp cho hiệu dụng của khoa học thêm phần bảo đảm “.Qua đây có
thể khẳng định Phật pháp không trái với khoa học, khoa học càng phát triển càng
có khả năng chứng minh sự tinh vi cao sâu của Phật pháp.
Nhà Bác học
Vật lý Albert Einsten nói rằng: “Tôn giáo tương lai sẽ là tôn giáo toàn cầu,
vượt lên mọi thần linh giáo điều và thần học.
Tôn giáo ấy
phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý
thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện trên, trong
cái nhất thể đầy ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng đủ điều kiện đó. Nếu có một tôn
giáo nào đương đầu mọi nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của
mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần
từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học vì Phật giáo đã bao gồm cả
khoa học cũng như vượt qua khoa học. Tôi là người không tôn giáo. Nhưng nếu có
tôn giáo thì tôi phải là Phật tử. Vì những gì tôi biết bây giờ, thì mấy ngàn
năm qua kinh Phật đã nói hết rồi.
Qua các sự
trình bày trên chúng ta thấy Phật giáo đã bao gồm các lãnh vực văn học, y học,
thiên văn học, tâm lý học v.v... cho nên nhà Bác học Vật lý Einstein đã dự đoán
tôn giáo tương lai sẽ là tôn giáo toàn cầu, vượt lên mọi thân linh giáo điều và
thần học, là tôn giáo bao gồm cả khoa học và vượt lên khoa học, điều này đúng
với sự phát triển của các hội đoàn Phật giáo trên các nước phương tây ngày nay.
Hai phương pháp thực tập của Phật giáo là Thiền định và ăn chay đã giúp cho
người phương tây đem lại sự bình an thân
và tâm của họ một cách thiết thực. Đạo Phật không còn là một tôn giáo chuyên về
tín ngưỡng mà là một phương pháp thực tập cách sống đem lại hạnh phúc cho tự
thân và tha nhân ngay trong cuộc đời này, ở đây và bất cứ nơi đâu./,
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét