TỨ NHIẾP PHÁP
Giáo lý đạo Phật được xem là pháp bảo đối với tín đồ Phật giáo, vì đây
là những lời chỉ dạy quý báu của đức Phật, có giá trị lớn lao, giúp tín đồ chuyển
hoá tham, sân, si phiền não, giải thoát đau khổ đạt đến an
lạc hạnh phúc. Nội dung chính trong giáo lý đạo Phật đề cập đến khổ và phương
pháp diệt khổ. Đạo Phật là một tôn giáo thực tiễn, đạo Phật quan tâm đến việc
giúp mọi người tích cực tìm hiểu nội dung giáo pháp để từ đó hưởng được pháp lạc.
Một trong những điều thể hiện sự quan tâm đó chính Tứ nhiếp pháp.
Tứ nhiếp pháp áp dụng vào đời sống hàng ngày của
người Phật tử, để phát huy tính ưu việt của giáo lý này như là một nghệ thuật cảm
hoá lòng người hữu hiệu. Tứ nhiếp pháp là gì ? Tứ nhiếp pháp là bốn phương pháp Bồ tát sử dụng
thu nhiếp chúng sanh, khiến họ sanh tâm thân ái mà dắt dẫn họ vào Phật đạo đạt
đến khai ngộ.
Bốn phương pháp gồm: Bố thí nhiếp, Ái
ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp và Đồng sự nhiếp. Theo Phật Học phổ thông của HT Thiện
Hoa, giải thích rằng: Tứ nhiếp pháp là bốn phương pháp lợi tha nhiếp phục chúng
sanh quay về với Phật pháp. Bốn phương pháp đó là: Bố thí, ái ngữ, lợi hành và
đồng sự.
Tứ nhiếp pháp là bốn phương pháp để
phật tử cảm hoá người khác về với Phật pháp. Bốn phương
pháp này gồm. Bố thí nhiếp, đối với người ham tài thì bố thí tài, đối với người
ham pháp thì bố thí pháp, đối với người đang sợ hãi, thì trao cho họ sự không sợ
hãi, tức là vô uý thí trong cuộc sống.
Ái ngữ nhiếp: dùng ngôn ngữ ôn hoà, từ ái, khiến người sanh tâm hoan hỷ, cảm mến từ đó họ
theo ta học đạo.
Lợi hành nhiếp: dùng lời nói hành động, ý nghĩ của mình để
làm lợi ích cho người, khiến người ta sanh tâm kính mến mà theo ta học đạo.
Đồng sự nhiếp: Bằng mọi cách để gần gủi,
tham gia vào các công việc của người để dễ cảm hoá họ, khiến
họ sinh tâm kính mến mà theo ta học đạo cảm hoá lòng người,
2- Giá trị Tứ nhiếp pháp:
Trong đời sống tinh thần của người Phật tử, Tứ nhiếp pháp được sử dụng
như một nghệ thuật, Tứ nhiếp pháp sẽ đem đến rất nhiều giá trị hữu ích cho cả tự
thân lẫn tha nhân. Tuy Tứ nhiếp pháp là một pháp môn tu tập hướng đến tha nhân
nhưng việc thực hành Tứ nhiếp pháp lại đưa đến quá trình chuyển hoá tự thân thật sinh động. Điều này thể hiện qua sự thay đổi,
chuyển hoá nội tâm từ nhận thức, thái độ đến hành vi khiến
Phật tử ngày càng trở nên thuần thiện gặt
hái nhiều phước báu trên lộ trình tu nhân học Phật.
Về mặt nhận thức: Tứ nhiếp pháp giúp
người Phật tử có nhận thức đúng hơn về nhân quả, về thế giới con người, về cách
ứng xử giữa người với người và hàng loạt những yêu cầu liên
quan để nhiếp phục lòng người. Từ đó Phật tử hiểu hơn về thế giới tâm lý con
người để định hướng cách giao tiếp ứng sử của mình cho phù hợp nhất. Vì thế muốn
cảm hoá người khác chúng ta phải dùng lòng từ bi khoan
dung, thái độ tôn trọng tấm lòng yêu thương mới có thể cảm hoá
được nhân tâm. Những hành vi như trách móc, lên án, khinh bỉ, phê phán, loại trừ
thường tạo nên tâm thế phòng thủ. Phản kháng rất khó nhiếp phục tha nhân.
Về mặt thái độ:
Tứ nhiếp pháp giúp phật tử có cảm xúc tích cực trong cuộc sống như lạc quan yêu
đời, sống bao dung, chan hoà với mọi người, có thái độ hoà nhã, hướng thiện, có những định hướng tinh thần mang đậm
màu sắc nhân văn khi sống và làm việc với mọi người.
Khi nhận thức được rằng, không ai có
thể sống độc lập mà tồn tại, mà chúng ta sống có sự liên đới với nhau về vật chất
lẫn tinh thần. Vì thế chúng ta có nghĩa vụ trao đổi công việc với nhau, giúp đỡ
lẫn nhau, chia sẻ nghĩa tình, phục vụ người và được người phục vụ. Chúng ta có
sự liên đới trong hạnh phúc và đau khổ, vui sướng lẫn buồn khổ. Nhận thức được
như vậy, chúng ta sẽ có thái độ sống tích cực hơn, ý nghĩa hơn.
Các nhà tâm lý học khẳng định rằng,
chính thái độ tích cực mới là nhân tố quyết định một người có hạnh phúc hay
không, chứ không phải là các yếu tố xung quanh, cuộc sống như gia đình, sự nghiệp,
tình yêu có thuận lợi, tốt đẹp hay không.
Về mặt hành vi:
Giá trị của Tứ nhiếp pháp về mặt điều chỉnh hành vi ý muốn nhắc đến những hành
động hiền thiện, chuẩn mực, phù hợp cụ thể cần phải có để người phật tử cảm hoá lòng người, mà nếu không thực tập Tứ nhiếp pháp thì không
dễ gì bộc lộ ra bên ngoài. Đó là: nuôi dưỡng lòng từ bi, thực hành hạnh buông xả,
diệt trừ tham lam ích kỷ để giúp người qua cơn hoạn nạn, khó khăn túng thiếu, sợ
hãi.
Thực tập lời nói thiện lành, hạnh lắng
nghe chia sẻ, giúp sanh tâm hoan hỷ, thích thú mà phát khởi tín tâm với Tam Bảo.
Bỏ tự lợi hành lợi tha để giúp người
an ổn hạnh phúc, từ đó phát tâm làm lành lánh dữ.
Hoà nhập công tác với người, cùng chia
bùi sẻ ngọt với người, làm tấm gương sáng để mọi người noi theo.
Ứng dụng Tứ nhiếp pháp với đời sống thường ngày của người Phật tử. Ứng dụng Tứ nhiếp
pháp vào đời sống thường ngày nghĩa là phải thể hiện những hành động, lời nói,
việc làm nhằm giúp đỡ người khác có cuộc sống cân bằng hơn, thoải mái hơn về
tinh thần và vật chất, giúp họ cảm nhận tích cực về cuộc sống, từ đó họ sanh
tâm hoan hỷ học đạo, căn cứ vào yếu tố tín tâm Tam Bảo. Có thể tạm chia ra việc
cảm hoá của người Phật tử thành hai loại: Một là đối với
người chưa tin Tam bảo, và hai là đối với người đã tin Tam bảo.
Đối với người chưa có tín tâm Tam bảo: Trong những hoàn cảnh để phật tử dễ dàng thực
tập Tứ nhiếp pháp là giúp đỡ người khác được bình an khi họ đang gặp những vấn
đề bất an, lo lắng trong cuộc sống, như các việc cưới hỏi, tang lễ, các vấn đề
liên quan đến đời sống tinh thần của con người xảy ra trong cuộc sống thường nhật.
Phật tử có thể giúp người khác giải quyết những vấn đề này một cách nhanh
chóng.
Như tang lễ: Khi một người thân trong
một gia đình qua đời, người ta thường cảm thấy bất an, hụt hẫng, trống trải và
thương tiếc “ không thể chấp nhận được” sự ra đi của người thân. Họ hoang mang
tự hỏi, bây giờ phải làm gì để có ích cho người thân đã mất của mình. Thì khi ấy
Phật tử sẽ giúp đỡ họ bằng cách khuyến nhủ, an ủi, giúp họ lo chu toàn tang lễ.
Nếu họ có tin tưởng Phật pháp, hướng dẫn họ đến Tăng Ni về hỗ trợ phần nghi lễ,
qua sự tư vấn giúp đỡ của Phật tử đối với gia đình có tang lễ, sau đó họ có cảm
tình dẫn đến họ sẽ có tín tâm Tam Bảo và trở thành người Phật tử. Và cũng chính
sự trợ giúp cho những gia đình có tang gia bối rối, khiến họ yên tâm sự ra đi của người thân và nguôi ngoai sự buồn
khổ.
Cầu an: Trong cuộc sống thường ngày
ai cũng luôn có sự ám ảnh những nổi bất an, nhất là những gia đình hay có những
việc xảy ra không mấy yên ổn. Lễ cầu an là một phương pháp trấn an tâm lý, đồng
thời khơi dậy niềm tin vào Tam Bảo cho những người chưa có niềm tin. Nhờ đó niềm
tin vào Tam bảo bắt đầu được hình thành, nên họ vững tâm và đặt hy vọng sự bình
an sẽ đến với gia đình họ, và bao trắc trở khó khăn khiến họ kiên nhẫn vượt
qua, họ có bến đỗ bình an trong những cơn giống tố cuộc đời, làm cho niềm tin
Tam bảo của họ vững mạnh và thực sự trở thành người Phật tử thuần thành.
Ngoài ra phật tử dùng Tứ nhiếp pháp thông qua
các sinh hoạt hằng ngày, nơi xóm giềng, chỗ làm việc, hay những biến cố trong
cuộc sống, nghề nghiệp, trong gia đình, gia tộc dòng họ v.v. Đây đều là những
tình huống phật tử có thể vận dụng Tứ nhiếp pháp để giúp đỡ người khác, mặc
khác tạo cảm tình, tin tưởng, nâng cao uy tín cá nhân, để từ đó nhiếp phục họ
quay về với Tam Bảo.
Đối với người đã có tín tâm Tam Bảo: Người đã có tín tâm Tam Bảo rồi, phật tử vận dụng Tứ
nhiếp pháp khiến niềm tin Tam Bảo trở nên kiên cố hơn, nâng cao và củng cố niềm
tin bền vững hơn, tìm thấy sự an lạc hạnh phúc trong tâm trí thăng tiến tâm
linh. Khi đã có tín tâm kiên cố họ thường hay tham gia các hoạt động từ thiện,
Phật sự nhiều hơn như các đạo tràng tụng kinh, niệm Phật, nghe pháp, hành
hương, cúng dường, các lễ hội v.v...
Tóm lại Tứ nhiếp pháp, là pháp môn
phương tiện mang tính nhiếp hoá, cảm phục lòng người, Phật
tử hiện thực hoá Tứ nhiếp pháp trong đời sống là thực hiện hạnh lợi tha, hướng lời nói, suy nghĩ, hành động của
mình về lợi ích của người chưa có tín tâm và cả người đã có tín tâm Tam bảo,
đáp ứng nhu cầu tinh thần cho họ, các nhu cầu tinh thần này bao gồm những đòi hỏi về sự an ủi, sự chia sẻ, sự
giúp đỡ, sự tương tác, nhằm hướng đến sự cân bằng và thanh thản về đời sống
tinh thần lẫn vật chất của họ. Quá đó, giúp họ hình thành, củng
cố và phát triển niềm tin Tam bảo, nỗ lực thực hành lời
Phật dạy.
Mỗi phật tử là một hoằng pháp viên,
áp dụng Tứ nhiếp pháp góp phần đem ánh sáng phật pháp lan toả
đến mọi người, mọi nơi chốn để phật pháp càng ngày càng thêm xương minh, chúng
sanh thêm lợi lạc. Vậy sự am hiểu và thực hành Tứ nhiếp pháp là điều không thể
thiếu đối với mỗi người Phật tử tại gia
cũng như xuất gia./.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét