TỔNG QUAN VỀ GIỚI HỌC
Những quy tắc
đạo đức có một vị trí rất quan trọng trong hầu hết các tôn giáo. Pháp luật hay
các quy ước là điều cần thiết đối với bất cứ thành viên nào trong xã hội. Trong
mỗi gia đình nếu không có quy tắc, gia đình ấy sẽ xảy ra bất đồng; một quốc gia
nếu không có phép nước, thì quốc gia đó sẽ rối loạn. Trong Phật giáo cũng vậy,
giới luật đóng một vai trò vô cùng đặc biệt. Giới được xem là mạng mạch của đời
sống Tăng già. Vì vậy, trong đời sống sinh hoạt của Tăng đoàn hầu hết các quy tắc
đặt ra là để phòng hộ, ngăn chặn các hành vi, lời nói bất
thiện của Tỳ kheo do tham lam, sân hận hay si mê chi phối. Giới là để chế ngự
các bất thiện pháp, phụng hành các thiện sự, và thanh tịnh các tâm hành.
Giới là một
trong Tam vô lậu học, giới , định và tuệ.
Con đường thanh tịnh hay con đường giải thoát đưa chúng sanh đến bờ an vui giải
thoát. Lý do giới được đặt ở đầu tiên và đặc biệt nhấn mạnh vì là giới là nền tảng
của tất cả các thành tựu tâm linh. Chính Đức Phật đã xác tín với môn đệ của
mình rằng, giới luật là nền tảng của sự tiến bột tâm linh. “Nhân giới sanh định,
nhân định phát huệ”. Sự hoàn hảo trong giới đánh dấu giai đoạn đầu tiên trong sự
phát triển đời sống tinh thần của người đệ tử phật. Những lời khích lệ của Đức
Phật với chúng đệ tử trong vấn đề tuân thủ giới luật được tìm thấy nhiều trong
kinh tạng Nikaya, đôi khi Đức Phật dạy cho từng cá nhân nhưng có khi Ngài giáo
giới cho toàn bộ đại chúng. Điều này cho thấy rằng giới luật là nền tảng căn bản
của nếp sống thiền môn. Công việc đầu tiên của người tu tập là phải thọ trì giới
pháp để thực hành, nhằm điều chỉnh lại các oai nghi chánh hạnh theo tinh thần
giới luật, gạt bỏ những thói hư tật xấu để hoàn thiện tư cách tác phong của người
xuất gia học đạo.
Ý nghĩa
giới học: Nói về giới cả hai ngôn
ngữ Pali và Phạn đều dùng thuật ngữ Sila. Về Phạn văn, tác giả Arthur Anthony
Macdonell định nghĩa: “Giới là thói quen hay tập quán, phong tục, sự thu thúc,
đặc tính, hành vi, sự ứng xử tốt hay thói quen, tính cách cao thượng, ngay thẳng
, quy tắc đạo đức…”. Về Pali, ngài Buddhadata Mahathera định nghĩa: “Giới là sự tự nhiên,, thói quen,
đạo đức, thực hành, giới luật”. Giới theo nguyên nghĩa của nó là tự nhiên, là
thói quen,. Do vậy, giới vốn là thực tại với quy luật vận hành, nếu hành động
trái với quy luật tự nhiên thì gặp trở ngại. Qua đó, ta hiểu rằng giới là chuẩn
mực để đánh giá hành động đúng hay sai, điều gì nên làm và điều gì không nên
làm, để thoát khỏi mọi trói buộc khổ đau. Giới được định nghĩa là phòng phi chỉ
ác. Như Đại Trí độ luận nói: “Dứt ác không làm trở lại gọi là giới”.
Từ điển của Rhys Davids cắt nghĩa, giới (sila
) có gốc ngữ căn Sil. Ngữ căn Sil có hai
nghĩa: Upadharana ( luân lý, đạo đức của Phật giáo, cách cư xử, tư cách đạo đức
) và samadhi ( định, thiền ) . Do vậy, mà có thuật ngữ Định cộng giới, và Đạo cộng
giới, vì khi ở trong thiền định tam nghiệp luôn thanh tịnh thì đó là giữ giới.
Giới cũng được dịch là “thanh lương ”, nghĩa là mát mẻ, vì giới có
công năng dứt ba nghiệp quấy ác thiêu đốt. Thanh tịnh đạo luận giải thích rằng:
“Tránh xa cực đoan mê đắm dục được nêu bằng giới. Giới là phương tiện để vượt
qua khỏi các đoạ xứ, đề phòng sự vi phạm những điều ô nhiễm và thanh lọc những ô nhiễm
do tà hạnh”.
Giới được gọi như thế là vì nó có nghĩa của sự
kết hợp. kết hợp có hai nghĩa: một là phối hợp, chỉ sự không bất nhất trong ba
nghiệp thân, khẩu, ý nhờ đức hạnh, hai là nâng lên, nghĩa là giới là nền tảng
cho các thiện pháp. Thuật ngữ giới bao gồm các nội dung tương tự khác như sự kiềm
chế và bất hại. các chức năng của giới có hai ý nghĩa: 1/ hành động để ngăn chặn
hành vi sai trái và 2/ thực hành hoàn thiện các việc lành. Biểu hiện của nó là
một sự kết hợp của hai đức tính tàm và quý. Vì tàm và quý là nhân gần của giới.
Khi tàm quý có mặt thì giới phát sinh và tồn tại, ngược lại nếu không có tàm
quý thì sẽ hành động như cầm thú.
Giới còn có
hai nghĩa: Tác trì và chỉ trì. Giới tác trì dựa trên thực tế phát triển điều
lành, và giới chỉ trì là dựa trên tránh làm việc ác. Nói cách khác, tất cả quy
tắc đạo đức, là những hình thức tích cực , đều bao gồm trong giới tác trì. Tất
cả các giới luật bao gồm tránh những tệ nạn, giết hại , trộm cắp ….là các hình
thức tiêu cực có thể bao gồm trong giới chỉ trì.
Chữ Giới trong Giới bổn Ba la đề mộc xoa có
nghĩa là Biệt giải thoát hay Xứ xứ giải thoát, Tuỳ thuận giải
thoát,. Biệt giải thoát là giải thoát từng phần: Giữ giới nhiều thì giải thoát
nhiều, giữ giới ít thì giải thoát ít. Tuỳ thuận giải thoát
là là giải thoát tuỳ thuộc vào quả hữu vi hay vô vi của người
hành trì.
Trong Thanh tịnh đạo luận, ngài Phật Âm định
nghĩa: “Giới là gì? Đó là các pháp khởi
từ Tư tâm sở hiện hữu với một người từ bỏ sát sanh… hay nơi một người thực hành
viên mãn các học giới”; Luận thư Vô ngại giải phân tích: “Giới là gì? Có giới
là Tư tâm sở, có giới là các tâm sở thọ, tưởng, hành, có giới là sự chế ngự, có
giới là không vi phạm”.
Kinh Di giáo, trong phần trì giới, có liệt kê
các mục như sau:1. Kiềm chế tâm; Ăn uống điều độ; 3. Tiết chế ngủ nghỉ; Kiểm
soát sự nóng giận; 5. Kiềm chế tính tự buông thả; 6. Bỏ đi tính xu nịnh; 7. Giảm
thiểu dục vọng; 8. Biết đủ.
Nói chung,
giới có nghĩa là “chế ngự”theo năm cách như sau: Chế ngự với sự chế ngự của giới
bổn Ba la đề mộc xoa; chế ngự bằng tỉnh giác, chế ngự bằng tri kiến, chế ngự bằng kham nhẫn, chế ngự bằng tinh tấn.
Giới có nghĩa là “kết hợp”, vì nó kết hợp
ba nghiệp thân, khẩu, ý, hướng đến con đường thánh thiện. Giới có nghĩa là “nền
tảng”vì nó làm cơ sở cho các thiện pháp phát sinh. Giới còn có nghĩa là thanh
lương, vì nó làm cho người giữ giới cảm thấy thân tâm mát mẻ.
Các định nghĩa trên giúp chúng ta hiểu rõ
vai trò và ý nghĩa của giới luật. Người thực hành giới sẽ đạt được ba mục tiêu:
Không làm các điều ác (chư ác mạc tác),
làm các việc lành (chúng thiện phụng hành), giữ tâm ý thanh tịnh, loại bỏ
hết các lậu hoặc (tự tịnh kỳ ý). Đó cũng là mục tiêu tối thượng của bất cứ ai
thực hành theo phật giáo.
Do vậy ,
trong lời bài kinh cuối cùng trước khi Đức Thế Tôn diệt độ, Ngài ân cần căn dặn
chúng đệ tử rằng “Này các Tỳ kheo, sau khi Ta diệt độ, các Thầy phải trân trọng
tôn kính tịnh giới, như người mù mà được mắt sáng, nghèo được của báu, . Phải
biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu ta ở đời thì cũng không
khác gì tịnh giới ấy ”. Người xuất gia luôn lấy giới luật làm cương lĩnh tu tập
để chuyển hóa thân tâm, trang nghiêm huệ mạng. Tăng đoàn phát triển đều do
nương vào giới luật để thiết lập sự hòa hợp và thanh tịnh. Như vậy, giới luật
nhằm ổn định quy củ thiền môn, là áo giáp phòng chống giặc phiền não, là đạo
quân tiên phong mở cánh cửa giải thoát. Ta vẫn thấy rằng cả hai truyền thống Phật
giáo Nam tạng cũng như Bắc tạng đều xác quyết tầm quan trọng của giới luật.
Ba la đề
mộc xoa ( Patimokkha ). Ba la đề mộc xoa chứa các giới điều của Giới
bổn Tỳ kheo và giới bổn Tỳ kheo ni, còn gọi là giới cụ túc. Thuật ngữ này được
dịch là “biệt giải thoát”. Do đó, nó liên quan đến nhiệm vụ của Phật giáo để giải
thoát cá nhân con người ra khỏi khổ đau mà người đó phát nguyện thọ trì và thực
hành theo tông chỉ của giới bổn ấy. Theo nguyên nghĩa thì Ba la đề mộc xoa là
hướng tới sự giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.
Theo Đại phẩm
thuộc tạng Luật, Ba la đề mộc xoa có nghĩa là sự khởi đầu, người đứng đầu ( hoặc
mở lối ), cái quan trọng nhất, phẩm chất khéo léo, hay thiện xảo, ý nói thiện xảo
trong sự phòng hộ. Thuật ngữ này không chỉ đơn giản là bao gồm các giới điều để
tuân thủ, mà còn của một bài giảng trong đó Đức Phật liệt kê các nguyên tắc cơ bản chung cho các
giáo lý của tất cả chư Phật. Do đó, từ nguyên của thuật ngữ Ba la đề mộc xoa đều
biểu thị một tập hợp các nguyên tắc cơ bản để thực hành đạo đức tâm linh. Các học
giả như Rhys Davids, Oldenbeng và sau này là Childers đều cùng quan điểm rằng
Ba la đề mộc xoa có nghĩa là “gánh nặng được trút bỏ xuống, để đón nhận sự tự
do giải thoát”. Trong Thanh tịnh đạo luận, ngài Phật Âm cũng định nghĩa tương tự,
nhấn mạnh đến ý thức của hành giả được miễn trừ sự trừng phạt của địa ngục và nổi
khổ đau trong luân hồi sanh tử.
Theo nguồn Pali, Ba la đề mộc xoa có ba nghĩa.
– Ba la đề mộc xoa được định nghĩa là cái khởi đầu, là bộ mặt, nó là nguyên tắc
của các phẩm chất tốt.
Bất cứ ai tuân thủ quy tắc của giới Bổn Ba la
đề mộc xoa, người đó sẽ được giải thoát khổ đau trong tam đồ ác đạo, vì vậy nó
được gọi là Ba la đề mộc xoa.
-
Nó là phẩm chất cao nhất,
tuyệt vời nhất, là giới cụ túc, đưa người lên Bậc trên.
S. Dutt cho rằng Ba la đề mộc xoa nghĩa là “sự
thu thúc”. Ông coi đó là mối quan tâm bên ngoài của Tăng đoàn nhằm gắn kết các
thành viên đệ tử của Đức Phật vào trong sự thanh tịnh hoà hợp.
Trong khi Rhys Davids và Stede nói rằng
nó có nghĩa là “ràng buộc, bắt buộc, nhiệm vụ”. Tức để cho các Tỳ kheo có ý thức
hơn trong hành vi cử chỉ của mình. Tiến sĩ E.J. Thomas cho rằng Ba la đề mộc
xoa có nghĩa là “ràng buộc”, buộc chặt lại với nhau như chiếc áo giáp; ý nói
người chiến sĩ ra trận mà có áo giáp thì không sợ gươm đao, cũng vậy người xuất
gia khoát lên mình chiếc áo giáp của giới bổn Ba la đề mộc xoa thì không sợ giặc
phiền não tham, sân, si khuấy rối. Do đó, Tỳ kheo có nghĩa là Bố ma (làm cho ma
chúng khiếp sợ ) và phá ác ( diệt giặc ác ) là vậy, nên có nghĩa là “sự liên kết,
bắt buộc”.
Giới bổn Ba la đề mộc xoa được đúc kết thành
các quy tắc và đã được chư Tỳ kheo đọc tụng hai lần trong một tháng vào dịp lễ
Bố tát được tổ chức vào ngày Sóc, Vọng.
Luật ( Vinaya ): Luật tạng
được tạo thành từ các nguyên tắc kỷ luật đặt ra cho việc điều chỉnh các hành vi
của các đệ tử của Đức Phật. Nó chứa các quy tắc và quy định về việc quản lý của
Giáo hội Tăng già, và các quy tắc áp dụng
cho các hành vi trong cuộc sống hàng ngày của Tăng. Những quy định về việc tiếp
nhận đệ tử gia nhập vào Tăng đoàn, những nghi thức sám hối, giải tội; những quy
định về pháp an cư, nhà ở, quần áo, thuốc
chữa bệnh, và các thủ tục pháp lý trong
trường hợp ly giáo, cũng được bao gồm trong đó. Tất cả những quy định này đều
do Đức Phật ban hành trong những dịp khác nhau và kết thành bộ Luật tạng đầy đủ.
Luật vốn được dịch từ thuật ngữ “Vinaya”( thuộc
cả ngôn ngữ Pali lẫn Sanskrits ) không
thể chuyển tải đầy đủ hương vị của từ này, vì nó có nghĩa đen là “cái gì đó được
dẫn dắt”. Dẫn ra khỏi những gì? Dẫn ra khỏi khổ đau, đau khổ của tất cả các trải
nghiệm trong vòng sanh tử luân hồi. Vì vậy, Luật làm giải thoát những người thực
hành theo nó, giải thoát tam nghiệp thân, khẩu, ý trói buộc chúng sanh trôi lăn
trong sanh tử. Trong khi đó mục đích của luật là nhằm ngăn chặn các bất thiện
pháp từ bên ngoài vào hay bên trong khởi lên, mặc khác nó làm thanh tịnh tâm từ
các pháp nhiễm ô, tạo điều kiện cắt dứt phiền não, lậu hoặc.
Ý nghĩa thực tế của từ “Vinaya “là thoát ra, bãi bỏ, tiêu huỷ hoặc loại bỏ một cách công khai về những hành vi gây cản
trở sự tiến bộ trên con đường thực hành Chánh pháp. Nó có công dụng như những
hướng dẫn cần thiết để nghiêm trì giới cấm, đồng thời là những phương thức xử
lý hữu hiệu các sự vi phạm giới pháp. Nói một cách tách bạch thì luật bao gồm cả
giới, còn “giới “chỉ là một bộ phận của “luật”. Nhưng nói một cách khái quát
thì giới và luật tuy gọi khác nhau mà cùng chung một tính chất, vì thế nên có
tên ghép là giới luật.
Tóm lại, giới
học là chi phần vô cùng quan trọng trong tam vô lậu học. Thành tựu giới là bước
đầu tiên mở cánh cửa đi vào giác ngộ, giải thoát. Giới còn được xem như là mạng
mạch, huyết quản của Phật pháp. Vì, “Giới
luật là thọ mạng của Phật pháp, giới luật còn thì Phật pháp còn, giới luật
diệt thì Phật pháp diệt ”. Hành giả tu học mà không đứng trên đất của giới thì
các bước tiếp theo khó để thành tựu. Thực hành giới là thiết lập một đời sống đạo
đức căn bản và thành tựu thiền định và trí tuệ đưa đến an lạc và giải thoát, Niết
bàn. “Giới là để chế ngự, chế ngự là để
khỏi hối hận, không hối hận, là để được hân hoan, hân hoan để được hỷ, hỷ để được kinh an, khinh an để được lạc, lạc để được định, định để được chánh kiến, chánh kiến để được
vô dục, vô dục để được ly tham, ly tham để được giải thoát, giải thoát để có giải
thoát tri kiến, giải thoát tri kiến để đi đến vô thủ trước Niết bàn”.
(
VHPG số 331- 15-10-2019- Thích Trung Định )
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét