GIỚI VÀ LUẬT
Luật có ba
tên: 1/ Tỳ Ny, 2/ Thi la, 3/ Ba la đề mộc xoa. Tỳ ny là Giáo. Thi la là Hành,
Ba la đề mộc xoa là Quả. Là trình tự của Giáo, Hành , Quả. Tức từ học hỏi hiểu
biết nơi giáo pháp, kế đến thực hành và đạt kết quả. Cũng như nhân Giới sanh Định,
nhân Định mà có Huệ.
Tỳ ni là tiếng
Phạn, Trung Hoa dịch là Luật, Luật có nghĩa là pháp, cũng tức là pháp luật.
Pháp lấy khuôn phép làm nhất định làm ý nghĩa, chính khuôn phép đó quyết định
là phạm giới hay trì giới. Bởi vì trong luật tạng có phương pháp trì phạm. Nếu
như phạm thì có tướng nặng nhẹ, hoặc là khai duyên hoặc là giá chỉ, hoặc là
nhân tội hoặc là quả tội, đều được nói rõ thiết thực trong luật, cho nên gọi là
Pháp luật. Cũng chính dùng pháp luật này mà để phán xét trì phạm, thưởng phạt
phân minh, cho nên gọi là giáo thuyên.
Thi la là
tiếng Phạn, Trung Hoa dịch gọi là Giới, hoặc là thanh lương. Bởi vì giới pháp
này có thể trừ bỏ sự thiêu đốt trong thân tâm của chúng ta, chúng sanh cho nên
dựa vào công dụng của nó mà phiên dịch.
Lục độ gọi
là Thi la Ba la đề mộc xoa, gọi là Giới độ.
Giới có nghĩa là cảnh cáo, cũng chính là cảnh sách ba nghiệp thân, khẩu,
ý của chúng ta có thể xa lìa lỗi lầm, khi đối mặt với cảnh giới trước mắt. Giới
là pháp giúp cảnh tỉnh ba nghiệp là hành vi được cảnh tỉnh. Giới có ý nghĩa
ngăn chặn làm ác, ngăn ngừa ác pháp, giúp cho người tu hành, xả ác hướng thiện,
xả phàm hướng thánh đến quả vị thánh nhân cho nên gọi là cấm giới.
Ba la đề mộc
xoa là tiếng Phạn, phiên dịch ra tiếng Trung Hoa có nghĩa là Biệt. Biệt giải
thoát hoặc gọi là xứ xứ giải thoát. Có hai ý nghĩa, cận giải thoát, cũng gọi là
cận quả. Thứ hai là viễn giải thoát, cũng gọi là viễn giải thoát. 250 giới, 348
giới, 10 giới, Bát Quan Trai giới, 48 giới ….có thể trì một giới thì nhận được
giải thoát của một điều giới. Trì được 10 điều giới thì nhận được giải thoát 10
điều giới. Nếu trì tất cả thì nhận được tất cả giải thoát, sẽ không bị nghiệp lực
ràng buộc, cho nên gọi là biệt biệt giải thoát.. Lại nữa, cũng có thể nói về
tam nghiệp, thân không tạo sát sanh, trộm cắp, dâm dục, thì thân nghiệp chúng
ta được giải thoát. Miệng không tạo vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu thì
khẩu nghiệp chúng ta được giải thoát. Ý không khởi phiền não tham, sân, si thì
ý nghiệp của chúng ta được giải thoát, cho nên gọi là xứ xứ giải thoát. Khi ba
nghiệp thân, khẩu, ý cùng với sáu căn, đối với ngũ dục, lục trần, có sức mạnh của
giới hạnh không chạy theo làm các việc ác, gọi là chỉ trì, vâng làm các việc thiện
gọi là tác trì. Không bị cảnh giới của nghiệp trói buộc, không vi phạm giới thì
chúng ta được giải thoát, thì giới thanh tịnh, giới thể trong sáng, thì sẽ
không bị nghiệp lực trói buộc, cho nên gọi là giải thoát. Điều này gọi là cận
quả, thọ giới là nhân, không phạm là quả. Thứ hai viễn giải thoát, cũng gọi là viễn
quả. Viễn quả là nói về tương lai, hiện tại trừ bỏ hoặc nghiệp, tương lai thành
quả vị thánh, cho nên gọi là viễn quả, viễn giải thoát. Do đó, trong nhân hành
giới đức của ta được thanh tịnh thì có thể sanh khởi rất nhiều thiền định. Tâm
định hiện tiền mới có thể mở rộng trí tuệ Bát nhã của chúng ta. Có trí tuệ Bát
nhã rồi chúng ta có thể đoạn trừ phiền não, liễu sanh tử, độ chúng sanh, thành
Phật đạo. Điều này gọi là viễn quả, cũng gọi là viễn giải thoát.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét