TẠI SAO CÓ
SANH TỬ
Nguyên nhân của sanh tử
được nêu rõ trong Thập nhị nhân duyên, thuộc giáo lý căn bản của Phật giáo.
Trong 12 nhân duyên này, nguyên nhân khởi đầu là Vô minh, từ đó nguyên nhân chủ
yếu của sanh là hữu (nguyên nhân thứ 10 ), tức là sự hiện hữu của ba cõi: dục
giới, sắc giới và vô sắc giới; và nguyên nhân chủ yếu của tử là sanh; Sanh tử
là cái thứ 11 và 12 trong Thập nhị nhân duyên, mà cái khởi đầu là vô minh. Từ
vô minh sanh hành, hành sanh thức, thức sanh danh sắc…cho đến sanh và tử. Tóm lại
sanh tử là do vô minh của tâm và những hoạt động của tâm vô minh đó.
Thế giới với vô vàn sự
khác biệt giới hạn lẫn nhau, xung đột nhau, sanh diệt lẫn nhau, đó là cái chúng
ta gọi là sanh tử. sanh tử xuất hiện là do vô minh phân biệt, điều này kinh nói
trong hầu hết các bài kệ:
Tự cho mình là nam
Thấy kia là người nữ
Do tâm phân biệt này
Mà sanh lòng ái dục
Lòng dục vô sở hữu
Tâm tướng bất khả đắc
Do vì vọng phân biệt
( Nam tướng tam muội )
Huân tập tánh sai biệt
Khởi lên các thứ nghiệp
Nghiệp cũng không có sanh
Tất cả chẳng chân thật
( Long tướng
tam muội )
Kia
do nơi danh tự
Theo thế tục an lập
Trong ấy không có pháp
Mà vọng khởi phân biệt
( Ma hầu la tam muội )
Trong ấy không có tác giả
Do tự phân biệt sanh
Lúc ta ngồi đạo tràng
Biết tướng vô sanh này
Vì vô tướng vô sanh
Tánh ấy như hư không
Tướng ấy đều tịch tịnh…
( Địa ngục tướng tam muội )
Nhưng phân biệt do đâu
sanh? Sự phân biệt căn bản là sự phân biệt giữa tôi và những cái khác tôi, giữa
cái của tôi và những cái của người khác. Sự phân biệt ban đầu là sự phân biệt
giữa tôi và cái chẳng phải tôi. Sự phân biệt ấy là do lập nên một cách hư vọng
một cái tôi giả tạo đối lập với người khác và với thế giới.
Trong thực tại “không
có pháp mà vọng khởi phân biệt”. Trong thực tại không có thân “mà lấy vô thân làm thân”. Trong thực tại
vô tác mà lấy “pháp vô tác làm tác”.
Mọi việc làm, bám chấp, tham lam, sân giận, hy vọng và lo sợ...đều là việc làm
với hư không, vô ích...
Phàm phu trong vô si
Hư vọng sanh tưởng si
Trong vô trước sanh trước
Như thắt nút hư không
Lạ thay cho người ngu
Chẳng đáng làm mà làm
Các pháp đều chẳng có
Do nhiễm phân biệt sanh
Như muốn nắm hư không
Giữ yên ở một chỗ
Dẫu trải ngàn vạn kiếp
Không hề tích tụ được
Kẻ ngu từ xưa nay
Trải qua vô số kiếp
Vọng khởi thắt nút si
Như không chút phần tăng
Như người nắm hư không
Không hề tăng hay giảm
Gom góp si nhiều kiếp
Không tăng giảm cũng vậy
(
Vô minh tướng tam muội )
Cái gì khiến trong chỗ
không có sự bám níu (trước) lại sanh bám níu? Cái gì muốn thắt nút hư không, muốn
nắm giữ, gom tụ hư không mà không biết rằng hư không không hề tăng hay giảm.
Đó là sự chấp ngã hư vọng,
sự chấp ngã này là sự thắt nút hư không. Nói theo Tám thức, thì thức chấp ngã
là thức Mạc na, với những sức mạnh của nó là ngã kiến, ngã ái, ngã si, ngã mạn.
Vọng chấp vào một cái tôi, liền phân biệt giữa tôi và chẳng phải tôi, tôi và
người khác, tôi và thế giới. Có một cái tôi, đó là sự phân biệt ban đầu và căn
bản; đó là si (vô minh).
Thức chấp ngã thứ bảy này
chỉ huy, cai trị thức thứ sáu là ý thức và năm thức giác quan. Suy nghĩ là tôi
suy nghĩ, cho tôi và vì tôi. Con mắt thấy lỗ tai nghe là tôi thấy tôi nghe cho
tôi và vì tôi. Thức Mạc na chấp ngã này còn làm nhiễm ô thức căn bản là thức thứ
tám A-lại-da bằng ý niệm tôi và cái của tôi.
Cái tôi hư giả do vọng lập
đã phân chia thế giới thành tôi và cái chẳng phải tôi. Sự phân biệt, chia cắt ấy
lan dần và thâm nhập toàn bộ tám thức để chia chẻ thực tại thành từng manh mún
mà chúng ta gọi là sanh tử. Thức chấp ngã đã xé nát thực tại thành sanh tử. Nói
xé nát chỉ là một cách nói, vì thực tại tánh không không thể bị hư hoại, như
Bát nhã Tâm kinh nói, nó là “chẳng sanh,
chẳng diệt, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng dơ, chẳng sạch”. Hay nói theo
cách nói của hệ Pali: “thực tại là Niết
bàn, Niết bàn ấy không rộng thêm khi có ít người vào, không hẹp lại khi có rất
nhiều người ra”.
Hai dòng lớn nhất của Đại
thừa là Trung quán hay Trung đạo của Ngài Long Thọ và Duy thức của ngài Thế
Thân đều nói cái đầu tiên và cái cuối cùng của Phật giáo là vô ngã và vô pháp.
Nền tảng của Phật giáo là
vô ngã và vô pháp. Con đường hay phương pháp của Phật giáo là đi trong vô ngã
và vô pháp để thực hiện được vô ngã và vô pháp. Và Quả là vô ngã và vô pháp. Để
thực hiện vô ngã vô pháp, Phật giáo có rất nhiều pháp môn, chẳng hạn như các
tam muội của tướng tham, sân, si, tướng các loại chúng sanh… trong kinh Pháp hội
Văn Thù sư lợi Phổ môn này. Và ở đây,
chúng ta chỉ nói về những pháp quán của kinh này để giải tan những vọng
tưởng và vọng tướng đã tạo thành các cõi sanh tử.
Tại sao phải quán? Bởi vì
hiện thời cái quán, cái thấy của chúng ta là do phân biệt, và chính sự quán thấy
phân biệt sai lầm ấy tạo ra sanh tử hư vọng. Chúng ta phải phản quán trở lại để
thấy thực tại đúng như nó là. Bởi vì do phân biệt mà chúng ta quán sát ngã và
pháp có tự tánh, có thật. Cho nên chúng ta phải chánh quán trở lại để thấy ngã
và pháp là không có tự tánh, không thật, như huyễn, như mộng. Do đó mà giải
thoát khỏi mê lầm, giải thoát khỏi sanh tử do chúng ta hư vọng tạo nên.
Trong kinh nói quá trình
tu tập là Văn, Tư, Tu. Văn là nghe giảng, đọc, nghiên cứu… Văn chỉ làm cho
chúng ta thích thú, muốn tìm hiểu rộng hơn, sâu hơn. Tiếp theo là Tư, tư duy,
suy nghĩ, phản biện, áp dụng cái nghe vào đời sống, thử nghiệm xem nó có đúng
không. Khi thấy sự thật là như vậy, không thể sai khác, chúng ta mới có niềm
tin vào pháp để thực sự thực hành. Thứ ba là thực hành, Tu, đem những điều đã học,
đã suy ngẫm và đã thử áp dụng vào thực hành thiền định, thiền quán. Có những
kinh như kinh Kim Cương, nói chỉ bốn câu kệ là đủ cho cả quá trình Văn, Tư, Tu.
Vấn đề là ta phải chứng nghiệm nó, hiện thực hóa nó trong cuộc sống trần gian
này.
Nhờ thiền định, thiền
quán theo định hướng nhất định, cộng thêm những yếu tố khác làm động lực như
phát nguyện, làm công đức, tinh tấn, sùng mộ…những tấm màn chấp ngã chấp pháp
được tháo gỡ. cho đến một lúc những tấm màn che ấy đã thưa bớt, chúng ta chạm mặt
thấy trực tiếp tánh không, mặc dầu chỉ thấy được một phần.
Sau đó, đã có sự xác quyết
do chứng nghiệm sự thật là như vậy, chúng ta gỡ bỏ cho đến khi các che chướng
hoàn toàn hết hẳn. Cái thấy, chánh kiến về tánh không, ban đầu chỉ chiếm một phần
trong cuộc đời chúng ta, sau đó trùm cả thân, tâm, thế giới và chúng sanh. Có lẽ,
khi cái thấy tánh không bao trùm tất cả hiện hữu, chúng ta sẽ thấy tất cả là giải
thoát, hay nói theo kinh điển, tất cả sanh tử là Niết bàn ./.
( Trích: Tại sao có sanh tử: Nguyễn Thế
Đăng – VHPG- 15-7-2019- số 325 )
--T--
0 nhận xét:
Đăng nhận xét