BỐ THÍ VÀ PHƯỚC BỐ THÍ
Bố thí làm
sao có phước mà tránh được ác nghiệp.
Bố thí là sự
chia sẻ giữa người với người trên hai phương diện, vất chất và tinh thần. Bố
thí là nghĩa cử cao đẹp mà trong đạo Phật luôn ca ngợi và khích lệ. Bố thí là một
chi phần trong sự tu tập của người học Phật. Nhưng để hiểu bố thí đem lại một sự
hoàn hảo cả vật chất lẫn tinh thần là việc không phải ai cũng hiểu hết. Do đó,
đưa đến việc Bố thí có nhiều góc độ khác nhau, có thể đưa đến có phước và có thể
đưa đến có tội, có thể huề vốn hay coi như bằng không, hoặc bố thí tội ít phước
nhiều, hoặc phước nhiều tội ít.
Dưới đây ta
chia sẻ một vài khía cạnh cùng một việc bố thí mà đưa đến kết quả không giống
nhau. Ví như có người cần tiền để giải quyết một việc cần, một việc gấp để lo
công việc, ta có họ hỏi ta nói không đến lúc ta không cần việc đã qua, lúc đó
đem ra bố thí thì phước đó không là bao. Ông bà ta nói: “một miếng khi đói bằng
đọi khi no”. Cho nên bố thì phải đúng thời, đúng lúc, đúng nhu cầu, với cái tâm
chân thật biết thương yêu, biết chia sẻ. Bố thí không cần người ta phải trả ơn,
mang ơn, biết ơn, nhớ ơn mình, như thế mới gọi là bố thí chân thật, mới có phước.
Thi ân thì đừng cầu đáp trả, cầu đáp trả là có sự mưu đồ, có sự mưu đồ sẽ tạo
ra tội lỗi phiền não và nghiệp chướng, phước giảm tội tăng. Hôm qua ta cho nó
mượn tiền, ngày nay nó gặp mặt không nhìn, ta sinh tâm bức tức nghĩ về người
kia vô ơn bội nghĩa. Rồi ta phát ngôn những lời không đẹp về người ấy, ta có
cách ứng xử khác với người ấy, cứ như thế phiền não và nghiệp chướng càng ngày càng
lớn thêm. Thà đừng cho còn hơn cho rồi kể lể tính công, kể ra tạo một thiên kiến
giữa mình và người khác, đã mất tiền, mất tình mất luôn những nghĩa cử tốt đẹp
ban đầu và mãi mãi về sau. Tây phương có câu châm ngôn: “Thà bạn cho người tiền
còn hơn bạn cho người mượn tiền, cho mượn tiền đã mất tiền lại còn mất tình, mất
luôn người bạn”. Đây là những cách cho còn nằm trong sự mưu cầu tính toán so
đo. Trong những tình huống như thế, ta đã đánh mất tình người , tình bạn, ngày
ngày chúng ta gặp nhau, ta mất đi cái tình cảm thân thương, kính trọng nhau như
thuở ban đầu. Một phút cho đi mà ta đã đánh mất đi những giờ phút, năm
tháng bình yên từ đây về sau. Cái đó đã
mất phước mà thêm tội. Những người ta đã giúp đỡ, họ vô tình gặp ta không hỏi,
không thăm, khiến mình tổn thương, một người đang hiền từ trở nên người giận dữ
cáu ghét. Thế rồi, tự mình làm khổ đến mình, khổ đến người thân chung sống với
mình, và bao nhiêu việc thiện, bao nhiêu ý niệm tốt đẹp thối tâm, thối chí đều
tan biến như nước đá gặp nhiệt độ nóng. Để rồi oán hận tìm cách trả thù, như thế
nghiệp chồng thêm nghiệp. Cho nên nói bố thí không sanh phước mà sanh tội là vậy.
Khi làm việc
nghĩa, việc ân đừng có khoe khoang kể lể.
nhà đó, người đó tôi đã từng giúp đỡ, mà bây giờ tôi cần, chẳng đáp ứng gì được
cho tôi. Khi ta làm việc nghĩa việc ân vô tình ta kể lể, điều đó làm cho phước
ta mất đi, ví như ve dầu ta mở nút không đóng lại thế nào mùi thơm của dầu sự
tinh tuý của dầu sẽ bay hết còn lại chỉ nước lạnh mà thôi.
Những việc này chúng ta thường hay vấp phải, nhất là trong gia đình, chúng ta
nuôi cha nuôi mẹ rồi lại kể lể, điều đó làm mất đi cái âm phúc, đúng ra ta phải
giữ nó để làm cái phúc cho mình cho con cháu mình. Làm thì ít mà khoe khoang kể lể thì nhiều, làm cho người chịu ơn mang ơn họ
cảm thấy không yên lòng, cả hai người cho người nhận không còn sự thánh thiện
thanh thoát như thuở ban đầu. Bố thí có phước nằm trên ba phương diện để được
phước là: người cho, kẻ nhận và vật đem cho phải thanh tịnh mới có phước, ngược
lại phước giảm tội tăng. Khi cho đi không nghĩ gì về mình, lúc nào cũng nghĩ đến
người khác, muốn làm lợi, làm vui cho người khác, như thế phước mới có. Ngoài
ra tránh sự yêu thương cuồng si, yêu thương tham lam, yêu thương như vậy, khi
người kia đi vắng mình bơ vơ lạc lõng, mất chỗ dựa mất niềm tin, “người đi một
nửa hồn tôi mất, một nữa hình như bổng dại khờ”. Khi còn bên nhau ta hưởng thụ
quá nhiều, đến khi họ đi rồi mình không tìm đâu ra chỗ dựa, mình trở thành người
ngơ ngơ, ngáo ngáo. Cái đó không phải yêu thương sanh phước mà yêu thương sanh
tội. Nếu họ không đáp ứng đủ cho mình những nhu cầu, mình sẽ hận thù, giận dữ,
đó là ta tự tạo ra cái ác nghiệp cho ta và đem cái khổ đến với người, trước kia ta nói những lời yêu thương với
nhau, nay những lời yêu thương đó biến thành những lời độc ác và những hành động
thô bạo đến với người thân người yêu của mình.
Đó là cái phước hữu lậu ta tạo ra hằng ngày, cái phước đó có đi rồi mất,
để có cái phước hữu lậu cũng rất khó không phải dễ , chúng ta phải tốn công tốn
sức thời gian tiền bạc của cải tâm ý mới có được.
Sở dĩ người
giàu có, địa vị không phải thông minh, học giỏi mà có được, mà nó do phước của
đời trước lưu lại cho đến ngày nay. Cho nên muốn sự giàu có thông minh và địa vị
được bền vững phải biết tiếp tục làm phước. Giống như ngọn đèn đang cháy, muốn
ngọn đèn cháy suốt đêm, cháy mãi mãi phải cho thêm dầu. Muốn bố thí có phước
không tội phải hiểu bốn điều sau đây:
1/ Bố thí
phải thanh tịnh: Người thí, người nhận và vật đem cho phải thanh tịnh. Bố thí
là muốn cho người khác được khoẻ được vui, không nghĩ gì về
mình. Nếu bố thí mà làm cho người khổ, không vui vô tình hay cố ý làm cho người
khác khổ. Bố thí như vậy huề vốn, thà ngồi không, đừng làm việc vô ích tác hại
cho mình và người khác bây giờ và mai sau.
2/ Đừng kể
lể khoe khoang những điều mình đã làm, mong người khác khen mình, biết mình,
tôn trọng mình. Những điều đó làm cho mình tổn phước thêm tội.
3/ Đừng chê
trách người khác không biết làm phước như mình.
Mình làm phước nhìn thấy người khác họ có nhiều phương tiện hơn mình họ
không làm phước, mình chê trách người ấy thua mình, không biết làm phước như
mình. Anh ấy như thế sao không biết đi làm từ thiện, người như thế mà không biết
làm từ thiện, không biết việc tốt để gieo trồng công đức. Nếu ta có ý nghĩ và lời
nói như thế, ta trở thành khen mình chê người, rơi vào giới vọng ngữ phá giới
mà không hay. Ta giữ giới tốt, ta làm việc tốt… cho mình là người tốt, còn những
người khác không bằng ta, đó là sự bố thì bằng tự ngã, mà những gì thuộc về tự
ngã thì không đi con đường của Phật đi, không đi con đường giải thoát mà đi
trên con đường đau khổ.
4/ Thi ân đừng
cầu đáp trả: Trong 10 điều tâm niệm trong luận luận Bảo vương Tam muội điều thứ
7 và thứ 8 như sau:
Điều 7: Điều thứ bảy trong "Mười Điều Tâm Niệm”dạy
rằng: "Với người thì đừng
mong tất cả thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu
căng. Hãy lấy người chống đối làm nơi giao du". Tại sao
vậy? Bởi vì sách có câu "năm người mười ý", đâu ai có ý kiến
giống ai, mỗi người thường có ít nhứt hai ý kiến trong cùng một vấn đề, nay vầy
mai khác, thì làm sao bắt buộc người khác phải thuận theo ý mình? Tại sao
mình lại không thuận theo ý người khác? Con người vì sự cố chấp, chấp
chặt như vậy cho nên phiền não và khổ đau dài dài!
Trong gia đình, nếu người chồng hay người vợ cố chấp, bảo thủ
ý kiến của riêng mình, thì làm sao gia đình đó có hạnh phúc được? Cái gì
của mình cũng đúng, cũng hay, cũng nhứt cả, thì làm sao chịu nghe ý kiến của
người khác? Cha mẹ và con cái thuộc hai thế hệ khác nhau, thì tức nhiên ý
kiến, suy nghĩ, hoàn cảnh, môi trường sinh hoạt, tất cả đều khác nhau, không
thể khai trừ nhau, cho nên phải tuỳ thuận nhau mà sống, mới
có được hạnh phúc trong gia đình. Trong thập đại nguyện của Bồ Tát Phổ
Hiền, điều thứ chín dạy: "Hằng thuận chúng sanh", chính là nghĩa đó
vậy. Tuy nhiên, tuỳ thuận chúng sanh không có nghĩa
là một người trong gia đình có lòng tham lam, xúi giục cả gia đình tham lam
theo, bất chấp thủ đoạn, lợi mình hại người!
Trong phạm vi xuất thế gian, người tu theo pháp môn này chê
bai pháp môn khác cũng đều không đúng. Tại sao vậy? Bởi vì đạo Phật
có nhiều pháp môn tương ứng, thích hợp, tuỳ theo căn cơ,
trình độ, hoàn cảnh, sở thích của mỗi người, để mọi người đều có thể tu tập
được. Chúng ta không nên nghĩ mọi người phải tu như mình, hành như mình, mới là
đúng. Ý nghĩ như vậy, tư tưởng như vậy chỉ làm cho chúng ta càng ngày
càng trở nên kiêu căng, phách lối, ngạo mạn, chê người, khinh đời. Trái
lại, chúng ta nên giao du với những người chống đối, trái ý, để luôn luôn suy
xét, hoàn chỉnh ý kiến của mình, chuyển hoá tâm tánh của
mình, để học hỏi thêm cái hay cái tốt của họ. Nhờ có những người nghịch
ý, chống đối như vậy chúng ta bớt lòng kiêu căng. Ví như chiếc xe có máy
móc để chạy, cũng cần có cái thắng mới hữu dụng vậy. Nếu không có cái
thắng, chắc chắn có ngày cũng lọt xuống hố mà thôi.
*
Điều 8: Điều thứ tám trong "Mười Điều Tâm Niệm”dạy
rằng: "Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có
ý mưu đồ. Hãy coi thi ân như đôi dép bỏ". Tại sao
vậy? Bởi vì chúng ta thi ân, làm ơn vì lòng tốt, chứ không phải vì muốn
được cám ơn, nhớ ơn hay đền ơn. Làm ơn mà muốn được cám ơn, muốn được nhớ
ơn, nghĩa là con người còn bản ngã, còn vì danh tiếng mới chịu làm. Làm
ơn mà muốn được đền ơn, nghĩa là con người còn bản ngã, còn vì lợi lộc mới chịu
làm. Làm ơn như vậy chẳng có phước báu gì, chẳng được người khác mang ơn,
mà còn chuốc lấy oán hờn, thù ghét, chuốc lấy ưu phiền, bực tức, khi gặp mặt kẻ
vô ơn, bạc nghĩa. Làm ơn như vậy rõ ràng là có mưu đồ, làm ơn thì ít, mà
muốn được đền ơn gấp bội phần. Chẳng hạn như khi đến phúng điếu, giúp đỡ
tang quyến người khác chẳng bao nhiêu, lại muốn được "trả công bội hậu”ở
nước thiên đàng, thì quả là tham lam quá xá.
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy: "Thi ân, bố thí bất trụ tướng, phước đức bất khả
tư lượng". Nghĩa là chúng ta làm ơn bố thí, nhưng không chấp
mình là người ban ơn làm phước, không thấy có người thọ nhận việc phước mình
làm, không nhớ mình làm phước giúp đỡ điều gì, không tính mình giúp đỡ bao
nhiêu người. Được như vậy, chúng ta sẽ ăn ngon ngủ yên, tâm trí không bất
an vì những chuyện phước đã làm, vì gặp những người vô ơn, không tiếc nuối
những vật đã đem cho, không ân hận đã giúp đỡ lầm người. Làm ơn có nghĩa
là làm phước, tạo phước bòn phước, cứu đời giúp người, khi cần thiết, lúc hoạn
nạn, chỉ vì lòng tốt, vì tâm lượng từ bi, vì muốn chuyển hoá
tâm tánh của chính mình, thì như vậy mới có thể làm ơn được lâu dài, giúp được
nhiều người, nhiều lần và phước báu vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn.
Sách có câu: "Thi ân bất cầu báo đáp", chính là nghĩa đó vậy.
Hàng phục được tâm ý, chuyển hoá được tánh tình như vậy,
chúng ta mới có thể phát nguyện độ tất cả chúng sanh, mà không thấy có chúng
sanh nào được độ. Cho nên Đức Phật dạy hãy coi thi ân như đôi dép bỏ, làm
ơn làm phước xong rồi thì quên ngay đi, bỏ qua liền, đừng ghi nhớ trong tâm
thức cho thêm phần nặng nề. Được như vậy, chúng ta mau tiến đến chỗ giác
ngộ và giải thoát.
Và cuối cùng điều quan trọng của người tu Phật ngoài việc bố
thí để có phước, phải tu Huệ, nếu có bố thí mà không có huệ thì bố thí đó thuộc
về bố thí hữu lậu, bố thí chấp ngã. Phải đạt đến Bố thí Ba la mật mới hoàn
thiện. Trì giới, giới không có huệ giới ấy trở nên tà giới, cho đến Định, không
có huệ gọi là Tà Định, cho dến nhẫn
nhục, tinh tấn không có huệ gọi là Tà Tinh tấn, Tà nhẫn nhục v.v. cho nên phải
có huệ. Muốn có huệ phải học và tu.
--T--
0 nhận xét:
Đăng nhận xét