THIỀN VÀ TÂM LÝ TRỊ LIỆU
Mục đích của tâm lý trị liệu, nói
chung, nhắm đến việc làm tăng trưởng nhân cách một con người theo chiều hướng
trưởng thành hơn, và giúp người đó “tự hiện thực hoá bản
thân mình”. Các mục tiêu chính của tâm lý trị liệu bao gồm: Gia tăng khả năng
thấu hiểu bản thân của thân chủ, tìm kiếm giải pháp cho các xung đột, gia tăng
sự chấp nhận bản thân của thân chủ, giúp cho thân chủ có những kỹ
năng ứng phó hữu hiệu với những khó khăn, giúp thân chủ củng cố niềm tin vững
mạnh, toàn vẹn và an toàn.
Thiền tiếng Anh gọi là meditation
là sự tu dưỡng, phát triển, đào luyện tâm. Thiền là tập trung tâm ý
chuyên nhất vào một đối tượng đưa đến nhất tâm. Thiền định làm loại trừ dần năm
yếu tố: Tham dục, sân hận, thuỳ miên, trạo hối và hoài
nghi, và chứng các thiền chi: tầm, từ, hỷ, lạc và nhất tâm. Thiền cũng được hiểu
là an trú trong chánh niệm làm cho thân và tâm trở về một mối, đưa đến hỷ lạc
và thiền lạc do ly các dục và các bất thiện pháp. Có nhiều phương pháp thực tập
thiền trong Phật giáo như thiền chỉ (samatha) thiền quán (vipasana).
Thiền chỉ là dừng lại các vọng tâm đưa đến các tầng thiền từ sơ thiền đến tứ
thiền. Thiền quán hay còn gọi là thiền Vipasana, gồm, thiền quán niệm hơi thở,
thiền tứ niệm xứ …
Thiền có mục đích giúp hành giả đạt tới một
cái thấy sâu sắc về thực tại. Cái thấy này có khả năng giải phóng cho mình ra khỏi
sự sợ hãi, lo âu, phiền muộn, có khả năng chế tác chất liệu trí tuệ và từ bi,
nâng cao phẩm chất của sự sống, đem lại cho mình và cho người khác nhiều niềm
vui, thảnh thơi và an lạc. Trên phương diện sức khoẻ, thiền
định được xem như một nghệ thuật thư giãn, trong cố gắng giảm thiểu sự căng thẳng
bức xúc, đau đớn, tạo cảm giác an lạc, giúp quân bình thân tâm và trị liệu các
chứng bệnh.
Trong Phật giáo có môn tâm lý học Phật
giáo. Duy thức học là bộ môn tâm lý học Phật giáo sâu sắc nhất. Trong bộ môn
này, các cấu trúc và sự vận hành của tâm được trình bày chi tiết. Tâm vương,
tâm sở, tâm bất tương ưng hành, sắc
pháp, tâm pháp, vô vi pháp, đều được các nhà Duy thức học đề cập một cách cụ thể.
Tâm lý học Phật giáo đi sâu vào phân tích sự vận hành của tâm, các mối liên hệ
giữa tâm vương, tâm sở, tâm bất tương ưng hành; tìm hiểu các gốc rễ của thiện, bất
thiện, phiền não, kiết sử và hướng dẫn phương pháp đoạn trừ chúng.
Có một số khác biệt giữa tâm lý trị liệu truyền thống
phương Tây và tâm lý học Phật giáo. Ở phương Tây có xu hướng xây dựng một cái
tôi chủ nghĩa, trong khi Phật giáo có mặt để giải quyết vấn đề trong tinh thần
vô ngã. Đức Phật không tranh cãi về thực tại tương đối của
một tự ngã thông thường hiện hữu. Tuy nhiên, Ngài đã nhấn mạnh rằng chúng ta có
xu hướng cung cấp cho tự ngã liên quan đến thực tại tuyệt đối không có thật.
Tuy nhiên, cả hai tâm lý học phương Tây và thiền Phật giáo có khả năng gắn kết
với nhau và có những giải pháp khá tương đồng trong việc giải quyết những vấn đề
tâm lý cho con người.
Đức Phật không chỉ là nhà văn hoá, giáo dục lớn ở Ấn Độ mà còn là người thầy cả nhân loại.
Ngài cũng là một nhà tâm lý học vĩ đại trị liệu tâm bệnh
cho tất cả chúng sanh. Đức Phật thấy rõ cả tâm lý hành vi và nhận thức trong
cách tiếp cận của mình bằng cách nhìn sâu vào trong các điều kiện tương duyên
làm phát sinh những cảm thọ đưa đến khổ đau hay hạnh phúc. Bốn mươi lăm năm
thuyết pháp độ sinh với trí tuệ và lòng từ bi, Đức Phật đã sử dụng các kỹ năng của phương tiện thuyết giảng sự thật con đường dẫn đến
giải thoát khỏi khổ đau. Quá trình chấm dứt khổ đau là một quá trình điều trị của
bệnh tâm. Do đó, chúng ta có thể nói rằng khái niệm về tâm lý trị liệu đã có
trong lời dạy của Đức Phật, cũng như trong thiền Phật giáo.
Trong thời gian gần đây đã có sự quan
tâm ngày càng tăng trong việc sử dụng tiềm năng của thực hành thiền định trong
tâm lý trị liệu. Phương pháp thiền Phật giáo được tìm hiểu kỷ bởi các nhà tâm
lý học phương Tây. Một số người tin rằng thiền định có khả năng trị liệu mạnh mẽ.
Điều này đã làm gia tăng một cuộc đối thoại phong phú, cởi mở, giữa các truyền
thống tu tập thiền định và tâm lý trị liệu phương Tây.
Mục đích thiền của Phật giáo là điều phục tâm,
an tâm, ngăn ngừa sự phát sinh của sự tham lam, sân hận và si mê. Thiền giúp
thúc đẩy sự phát triển tinh thần để giảm bớt tác động của sự đau khổ và đạt đến
mục đích cuối cùng của sự giải thoát, Niết bàn. Ngoài ra, bên cạnh mục đích cao
quý của nó, thực hành thiền định cũng sẽ dẫn đến những thay đổi sinh lý, hành
vi và nhận thức có lợi ích trong việc điều trị. Tiềm năng và mục tiêu cao cả nhất
của thiền là quán chiếu sâu sắc về bản chất cũng như chức năng của sự vật. Thiền
quán Vipassana là một sự đào luyện về chánh niệm, trong đó chú ý tập trung vào các
cảm xúc, suy nghĩ, tâm tư, tình cảm chính xác như chúng xảy
ra, mà không cần xây dựng các công cụ phân tích, đánh giá, lựa chọn, bày tỏ ý
kiến, kiểm duyệt, phán quyết, hoặc giải thích gì thêm. Chỉ cần chú tâm vào các
đối tượng thiền quán, dần dần chúng sẽ tự chuyển đổi.
Khi nghiên cứu về thiền định, nhiều học
giả thừa nhận rằng thiền chứa đựng nhiều thứ có thể cung cấp liệu pháp tâm lý;
đồng thời nhận biết rằng hiệu quả điều trị của thiền định là do sự kết hợp của
việc thư giãn, việc tái cấu trúc nhận thức, việc tập trung, việc tự quan sát,
và việc nhìn sâu vào bên trong sự vật. Nó đem lại một trạng thái thư giãn và
thay đổi các trạng thái của ý thức một cách tích cực.
Theo Mark Epstein, thiền Phật giáo không phải
là một biến thể của phân tâm học phương Đông trong khi phương pháp thực tập của
nó thể hiện một số điểm tương đồng sâu sắc.
Thiền làm thay đổi và tái cấu trúc cân bằng giữa thân và tâm, đưa thân tâm đi
vào một mối nhất như. Khi thân và tâm trở nên đồng nhất, bất khả phân ly thì hạnh
phúc kỳ diệu thực sự có mặt. Đó là niềm hạnh phúc chân thật nhất, cao tột nhất
mà ta cảm nhận được hạnh phúc trong thiền định, hạnh phúc không sanh diệt. Các
phương pháp thực tập chánh niệm thúc đẩy việc trị liệu cho sự chấp thủ về ngã,
giúp hành giả nhìn nhận và thấy rõ tự tính vô ngã của các pháp, nên không nuôi
dưỡng các yếu tố tăng trưởng bản ngã.
Hơn nữa, cả liệu pháp lẫn thiền định
đều giả định rằng sự hiểu biết sâu sắc về nổi khổ niềm đau và phương thức ngăn
chặn các yếu tố đưa đến khổ đau có tác dụng phòng thủ chống lại đau khổ, giúp
giảm bớt đau khổ và thúc đẩy tăng trưởng tâm lý lành mạnh. Các nhà tâm lý học
cho rằng, việc kết hợp giữa thiền định và
tâm lý trị liệu là “kỹ thuật tương thích và hỗ trợ lẫn
nhau”.
Mặc dù thiền định và tâm lý trị liệu cùng thực
hiện các chức năng mang lại hệ quả tất yếu trong việc nâng cao hạnh phúc cá
nhân, việc tăng cường nhận thức và nâng cao khả năng nhận diện về bản chất của
sự thật đưa thiền định Phật giáo đến gần với các liệu pháp tâm lý trị liệu. Thiền
dạy các kỹ năng của sự chú ý và một tâm trí tĩnh lặng, một
trạng thái của sự hài hoà nội tâm và một sự chuyển đổi siêu
việt của những mối quan tâm cá nhân mà
đó là tâm điểm của tâm lý trị liệu.
Những dữ liệu sinh lý về thiền cho thấy việc hành thiền có hiệu quả giúp
điều trị một loạt các vấn đề liên quan đến căng thẳng, chấn động tâm lý. Nhiều
nghiên cứu đã gợi ý rằng thiền định có thể là một chiến lược phòng ngừa hoặc phục
hồi chức năng đầy hứa hẹn trong điều trị nghiện, tăng huyết áp, sợ hãi, ám ảnh,
hen suyễn, mất ngủ, và căng thẳng. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng đối tượng thường
xuyên thực tập thiền sẽ có cơ hội nhiều hơn trong việc kiểm soát cảm xúc theo
hướng tích cực, đem lại nhiều lợi ích cho sức khoẻ cũng như
tinh thần. Thiền giúp thiền giả lấy lại năng lượng một cách toàn diện, xoa diu
các cảm giác ức chế, trì trệ, chuyển hóa, tăng tính tự phát tự tôn, nhận thức độc
lập, kiên định, tự tin và giao tiếp thân mật.
Tâm lý chung là khi những căng thẳng
hay phiền não dấy lên báo hiệu sự giày vò tâm trí, người ta có khuynh hướng làm
cho chúng lắng dịu thay vì phải chịu đựng. Khi một chuỗi tư
tưởng loạn động gây ra trạng thái bứt rứt tâm trí, hành giả an trú trong thiền
định qua sự tập trung hay quán chiếu vào một đề mục làm cho chúng tan biến đi,
từ đó đem tâm trở về trạng thái bình yên, tạo dựng thái độ không còn sợ hãi khiếp
nhược, là hiệu quả và đặc tính căn bản của thiền định.
Một cơ chế khác về tâm lý là sự thiếu lưu
thông giữa các cơ năng tâm thần, gây nên sự bức bách ứ đọng bên trong. Rất thường
xuyên, các hiện tượng như lời nói, tưởng tượng, xúc cảm là những ngăn kín chật
hẹp mà thiền định là nhịp cầu giúp chúng được thông thoáng hoà
hợp với nhau. Chẳng hạn thường xuyên đặt sự chú ý của tâm vào những tác động lên
thân khẩu ý là một phương cách thông thoáng hữu hiệu nhất.
Mark
Epstein cho biết: Đối với nhiều người, thiền Phật giáo có tất cả những tố
chất của tâm lý trị liệu thay thế, bao gồm cả sự kích thích các nơron thần
kinh, mao mạch…làm tăng cảm xúc, truyền cảm hứng về một ước vọng tương lại
tương sáng. Thiền có thể góp phần vào một số trường hợp có ích trong việc thúc
đẩy điều chỉnh các hành vi cá nhân có thể gây bất ổn xã hội, thay đổi hành vi,
suy nghĩ, phát triển tiềm năng sức mạnh của tự thân. Thiền đưa đến chánh niệm
tĩnh giác và an lạc nội tâm, dẫn đến hiệu quả cao hơn trong công việc, mang lại
sự cởi mở với cảm xúc và sự hài lòng trong cuộc sống hằng
ngày.
Sử dụng chánh niệm trong tâm lý trị liệu:
Niệm, tiếng Phạn là smrti. Nói cho đủ là chánh niệm (smayaksmrti).
Chánh niệm là sự tỉnh giác, là một nhận thức chuyên nhất về thực tế của sự vật
hiện tại đang là. Chánh niệm là nhớ nghĩ chơn chánh, là an trú tâm, nương vào
hơi thở, đưa thân tâm về một mối để cảm thụ hạnh phúc đích thực. Trong đạo Phật,
chánh niệm còn được gọi là trái tim của thiền quán. Trên căn bản thì chánh niệm
là một ý niệm hết sức đơn giản. Đó là an trú vào trong giây phút hiện tại, nhận
biết tất cả những gì đang xảy ra và ghi nhận nó. Sức mạnh của chánh niệm nằm ở
chỗ ta biết thực hành và áp dụng nó. Chánh niệm là một phương pháp tu học giản
dị nhưng có một năng lực vô song, có thể giúp ta thoát ra và tiếp xúc lại được
với tuệ giác và sự sống của mình. Đây là một phương cách giúp ta làm chủ lại được đường hướng và phẩm chất của đời mình, trong
đó có những mối tương quan của ta trong gia đình, ngoài xã hội, rộng hơn nữa là
với thế giới và trái đất này. Và căn bản hơn hết là với chính ta, như một con
người.
Để có
được chánh niệm, chúng ta phải thực tập hằng ngày. Mượn hơi thở vào ra để
thực tập chánh niệm. Có mười sáu phương pháp chánh niệm về hơi thở vào và thở
ra được đề cập trong kinh Quán niệm hơi thở. Nương vào mười sáu phương pháp
quán niệm hơi thở, hành giả lần lượt quán niệm về thân, thọ, tâm, và pháp một
cách sâu sắc. Ngoài ra chúng ta có thể mượn bất cứ âm thanh, hình ảnh có sẵn
như tiếng chuông, tiếng reo điện thoại để làm đối tượng thực tập chánh niệm. Bất
cứ cái gì làm cho ta an trú trong giây phút hiện tại, đưa thân và tâm trở về một
mối, khi đó ta mới cảm nhận được sự mầu nhiệm của chánh niệm.
Khi ta biết chú ý một cách cởi mở,
không để bị chi phối bởi sự ưa thích, ghét bỏ của mình, cũng như những ý kiến,
phê bình, xu hướng và mong ước, thì sẽ có những cơ hội mới xuất hiện và chúng
có thể giúp ta thoát ra khỏi được sự trói buộc của vô thức trong ta.
Sức mạnh của chánh niệm có thể làm giảm thiểu
các bế tắc, làm giải phóng các kiết sử trói buộc, thực hiện một số chức năng,
nhiệm vụ về liệu pháp tâm lý, tạo nên mối liên kết hài hoà,
buông xả thư thái nhẹ nhàng. Thiền sư Nyanaponika và Thiền sư Nhất Hạnh là các
bậc thầy của thiền chánh niệm. Pháp môn chánh
niệm đã giúp ích rất nhiều trong việc thiết lập truyền thông, đưa đến sự hiểu
biết và thương yêu đích thực. Có hiểu biết, có thương yêu là chất liệu quý giá
để thiết lập nền tảng hạnh phúc thật sự.
Trong đời sống hằng ngày, tâm ta thường
có khuynh hướng nhớ tưởng về quá khứ hoặc lo lắng cho tương lai. Thân ta có mặt
nhưng tâm ta không có mặt. Chánh niệm là năng lượng giúp ta đưa tâm ta về lại với
thân để ta có mặt đích thực trong giờ phút hiện tại. Có mặt như thế để có thể
tiếp xúc với những nhiệm mầu của sự sống trong ta và chung quanh ta. Theo tinh
thần thiền, sự sống chỉ có mặt đích thực trong giây phút hiện tại. Trong kinh
Nhất Dạ Hiền giả Đức Phật dạy “Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng,
quá khứ đã qua rồi, tương lai chưa đến chỉ có nhân hiện tại, tuệ quán chính là
đây”. Tiếp xúc được với những gì nhiệm mầu
có mặt trong giây phút hiện tại là để được nuôi dưỡng và trị liệu. Nếu năng lượng
chánh niệm đã trở nên vững vàng, ta có thể sử dụng nó để nhận diện và ôm ấp những
nổi khổ niềm đau của ta (như hận thù, tuyệt vọng, tham đắm, ghen tuông…) để có
thể chuyển hoá chúng dần dần. An trú được trong hiện tại có
thể đưa đến sự trị liệu mầu nhiệm: Một lần an trú được trong hiện tại là ta có
thể vượt thoát ra ngoài những nanh vuốt của sự tiếc thương và vương vấn về quá
khứ hoặc những lo lắng và sợ hãi về tương lai. Những năng lượng tiêu cực thường
đưa tới các chứng bệnh tâm thần.
Thực tập chánh niệm theo truyền thống
Phật giáo đang được sử dụng trong tâm lý trị liệu để làm giảm một loạt các điều
kiện về tinh thần và thể chất, bao gồm các rối loạn, ám ảnh, bức xúc, lo lắng
và ngăn ngừa tái phát trầm cảm và nghiện ngập ma tuý. Thiền
sư Nyanaponika nói rằng sự quán chiếu sâu sắc từ chánh niệm là hữu ích trong việc
phát hiện những quan niệm sai lầm do tư duy bất thiện, tà niệm dẫn đến sai lạc.
Ngài nói thêm rằng “ Chánh niệm đi sâu
vào các đối tượng, nhận diện một cách sâu sắc, không hời hợt, đồng nhất
thể giữa tâm và vật”. Theo Anne Marie Rossi, có hàng nghìn nghiên cứu cho thấy
rằng thực hành chánh niệm làm giảm trầm cảm, lo lắng và căng thẳng, làm tăng cảm
giác hạnh phúc, an lạc, sự tập trung, sự chú tâm, và khả năng đạt thành tích tốt
trong học vấn.
Chánh niệm như vậy có thể được sử dụng để tổ
chức lại các cấu trúc sâu, cũng như cung cấp cho chúng ta một môi trường khoáng
đãng, nhờ đó làm trưởng dưỡng hết những tính năng ưu việt trong ta. Nó có thể được sử dụng như
là công cụ chính trong việc trị liệu. Có thể nói đây là một liệu pháp hữu hiệu
trong việc nuôi dưỡng những hạt giống tốt trong ta, loại dần những chủng tử xấu
và thiết lập lại các trật tự vốn có một cách tự nhiên và hài hoà.
Học giả Bobrow cho biết thêm rằng thiền chánh
niệm Phật giáo giúp hành giả trong cuộc sống hằng ngày tiếp xúc một cách sâu sắc
vào những giây phút hiện tại, nhận diện một cách đầy đủ về những gì đang diễn
ra, không truy tìm quá khứ, không ước vọng tương lai, hiện tại lạc trú. Chánh niệm
là nhận diện thân thể và các tâm hành, thấy biết sự vận hành của nó để điều chỉnh
theo chiều hướng tích cực. Khi chú tâm vào thân thể và các tâm hành một cách đều
đặn, thì sự chuyển hoá sẽ diễn ra, thân và tâm trở nên thư
thái nhẹ nhàng.
Hiện nay trên thế giới, nhất là ở Tây
phương, đã có nhiều nơi áp dụng phép thực tập chánh niệm để đối trị các chứng nhức đầu, trầm cảm và giải toả tình trạng
căng thẳng trong thân tâm. Một số trường đại học ở Âu châu và Mỹ châu có nhiều
vị giáo sư y khoa giỏi về thiền chánh niệm, và điều khiển các chương trình trị
liệu, chữa trị cho các chứng đau nhức stress và tật bệnh khá hữu hiệu.
Tại các phân khoa y học thuộc các trường đại học lớn như Harvard và UCLA v.v...
cũng có những cơ sở nghiên cứu và áp dụng thiền tập vào sự chữa trị tâm bệnh và
thân bệnh.
Như vậy, việc thực hành thiền trong
Phật giáo là một phương pháp tuyệt với, hữu hiệu về tâm lý trị liệu. Việc thực
tập thiền đều đặn giúp cải thiện sức khoẻ thể chất cũng như
tinh thần, tái tạo và làm mới các cấu trúc tâm lý cũng như cân bằng giữa thân
và tâm./.
(Trích VHPG số 309 – 15-11-2018- Thích Trung Định
– Thiền và tâm lý trị liệu)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét