HOÀ HỢP
Đặc trưng nếp sống tu học cộng trụ mà
mọi thành viên của Tăng đoàn đều nỗ lực nhắm đến là sự
thanh tịnh và hoà hợp. Đó là ý thức và trách nhiệm cao quý
của người xuất gia gắn liền với lý tưởng giải thoát thanh tịnh- Niết bàn, giải
thoát, tham, sân,si. Bản chất của hoà hợp là thông suốt, hoan hỉ, không chướng ngại, là kết quả của tâm thanh tịnh, tâm
giải thoát. Nỗ lực phát huy hai phẩm chất này là công hạnh
của một hành giả tu học nhắm đến quả vị thanh tịnh giải thoát, tiến đến xây dựng
nếp sống thanh tịnh và hoà hợp của Tăng đoàn.
Thanh tịnh ở đây là giới thanh tịnh,
tâm thanh tịnh, tuệ thanh tịnh, tức tự trong sạch, vắng lặng các cấu uế tham,
sân, si, các phiền não, lậu hoặc, hay các bất thiện pháp, nơi một người chuyên
tâm thực hành Bát chánh đạo của Phật. Hoà hợp tức là sự đồng
nhất, hợp nhất, thống nhất, sự không sai biệt, không ngăn ngại, không chống đối
nhau giữa hai hay nhiều tâm thức cùng nỗ lực đạt đến thanh tịnh nhờ tu tập Bát chánh
đạo.
Người đệ tử phật sống theo lời Phật dạy, nỗ lực nhiếp phục và đoạn tận tham, sân, si, tức là bước đi
trên con đường hướng đến thanh tịnh và hoà hợp. Theo quan
niệm của đạo phật thì tham, sân, si là cội gốc của muôn ngàn khác biệt được tạo
ra trong tâm thức của chúng sanh, khiến cho chúng sanh tự mâu
thuẫn với chính mình và luôn luôn cảm thấy xa lạ với người khác. Tham, sân,
si tạo ra mọi tướng trạng, mọi biên giới, mọi phân biệt, mọi chướng ngại, khiến
cho lòng người bị phân ly, bị chia chẻ, bị ngăn ngại, không gần gủi và hoà hợp với nhau. Đạo Phật nói đến hoà hợp
tức là nói đến tâm giải thoát, bình đẳng giữa chúng sanh, nói đến khả năng nhiếp
phục tham, sân, si của mỗi người. Như vậy, tuỳ vào cấp độ
thanh tịnh, tức sự nổ lực nhiếp phục tham sân si của các cá nhân mà sự hoà hợp được tạo ra trong đời sống tập thể. Các thành viên
càng nỗ lực tu tập đạt dến thanh tịnh thì Tăng đoàn càng đi đến hoà hợp, mặt khác, Tăng đoàn hoà hợp cho thấy các thành viên có đời sống tu học thanh tịnh.
Khi hành giả nỗ lực đoạn tận tham, sân, si đạt đến tâm giải
thoát, thì tâm thức hoàn toàn đi đến hoà hợp, hợp nhất, như
nước hợp với sữa, chỉ thuần một vị giải thoát, không có khác biệt, giống như nước
của mọi con sông đổ vào biển cả chỉ thuần một vị mặn.
Để các thành viên thực hiện mục đích thanh tịnh
hướng đến xây dựng Tăng đoàn hoà hợp. Đức Phật đưa ra sáu
pháp tu tập đáp ứng cho tất cả hai mục tiêu, thanh tịnh và hoà
hợp, thường được gọi là pháp Lục hoà. Đức Phật nói
“ Này các Tỳ kheo, có sáu pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương
tác, tạo thành tương kính, đưa đến hoà đồng, đưa đến không
tranh luận, hoà hợp nhất trí, thế nào là sáu pháp hoà kính ?
Này các Tỳ kheo, an trú từ thân hành
đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng, pháp này cần phải ghi
nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hoà
đồng, đưa đến không tranh luận, hoà hợp, nhất trí.
Lại nữa, này các Tỳ kheo, an trú từ
khẩu hành đối với các bậc đồng phạm hạnh, cả trước mặt lẫn sau lưng. – pháp này
cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hoà đồng, đưa đến không tranh luận, hoà hợp,
nhất trí.
An trú ý hành, đối với các bậc đồng phạm hạnh,
trước mặt lẫn sau lưng. - pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo
thành tương kính, đưa đến hoà đồng, đưa đến không tranh luận,
hoà hợp, nhất trí.
-Đối với các
tài vật đúng pháp, hợp pháp cùng chia đều đến với các bậc đồng phạm hạnh, có hiện
diện hay không hiện diện cùng một trú xứ. pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành
tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hoà đồng, đưa đến
không tranh luận, hoà hợp, nhất trí.
Đối với sự hiểu biết, cùng chia sẻ với
các bậc chưa thông hiểu, để có chánh kiến thực hành chân chánh diệt tận khổ
đau, đoạn tận phiền não, đưa đến giải thoát an lạc.. Đức phật khuyên các Tỳ
kheo cần phải ghi nhớ và thực hành sáu pháp hoà kính trên.
Vì chúng là lẽ sống tạo nên sự tương mến và quý kính lẫn nhau đưa đến hoà đồng, không tranh luận, hoà hợp, nhất
trí giữa các thành viên trong cùng một trú xứ. Một thành viên tu tập thực hành
nếp sống lục hoà như vậy, thì cùng một lúc thành tựu hai việc:
tự mình thanh tịnh và góp phần tạo nên sự hoà hợp trong
Tăng đoàn.
Trước hết người tu tập cần phải thể
hiện từ thân hành, khẩu hành, ý hành, đối với các vị đồng phạm hạnh, cả trước mặt
lẫn sau lưng. Đây là nếp sống của người có tâm tôn trọng và thương quý người
khác, được thể hiện qua mỗi hành vi có chánh niệm và từ ái của chính mình. Từ
thân hành, khẩu hành, ý hành là lẽ sống sáng suốt, có chánh niệm, có từ tâm,
đưa đến lợi mình lợi người. Đối lập với tâm sân hận, ích kỷ, có nghĩa là thương
mến, yêu quý, ban cho, sẵn sàng giúp đỡ, không làm hại, muốn lợi ích cho người
khác. Nghĩa là người tu tập sống với ý thức luôn luôn tự phòng hộ và kiểm soát
bản thân mình, tuyệt đối không để cho bất cứ hành vi nào thuộc về thân, miệng,
ý xảy ra khiến cho tổn thương đến người khác, ngay cả người ấy có mặt hay không
có mặt. Làm bất cứ điều gì về thân, miệng, ý những việc làm ấy nhất định chân
chính, tốt đẹp đem lại lợi lạc cho người khác. Đây chính là giới đức của một
người tu tập thể hiện ở mọi lúc mọi nơi, có công năng tạo nên sự thanh tịnh và hoà hợp trong đời sống Tăng đoàn. Tức người tu tập kiên quyết
từ bỏ thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, nỗ lực thân làm thiện, miệng nói
thiện, ý nghĩ thiện, đem đến sự an vui và lòng tin tưởng cho mọi người, tạo nên
không khí tương tác, tương kính, đưa đến hoà hợp, hoan hỉ trong đời sống Tăng đoàn.
Một yếu tố khác có công năng giúp cho
người tu tập thực thi lẽ sống thanh tịnh, tạo ra sự hoan hỷ hoà
đồng trong đời sống tập thể là việc hoan hỉ san sẻ với các
bậc đồng tu những vật dụng mình có, như thức ăn, vật dụng, thuốc men v.v... sẵn
sàng chia sẻ khó khăn với các vị đồng tu. Đây là hạnh thí xả của người tu tập,
có công năng nhiếp phục lòng tham, giúp cho hành giả tu tập thể hiện đời sống thiểu
dục tri túc thanh tịnh, mặt khác tạo nên tình thân ái hoà đồng
giữa mình với người khác đồng tu.
Thứ đến là ý thức tuân thủ giới luật
và khuyến khích người tôn trọng giới luật trong đời sống tập thể là điều kiện
khác giúp cho cá nhân đi đến thanh tịnh và khiến cho tập thể đi đến hòa hợp. Giới
luật ở đây là các điều khoảng quy định lối sống của người tu tập và các hoạt động
của Tăng đoàn do Đức Phật thiết lập, có công năng phòng phi chỉ ác, giúp cho
hành giả tu tập thể hiện đời sống tu tập đúng đắn không sai phạm, đồng thời khiến
cho các hoạt động của Tăng đoàn được tiến triển ổn định và hài hoà.
Giới của Phật chế có chức năng tạo ra môi trường sinh hoạt lành mạnh và an ổn
cho các thành viên của Tăng đoàn. Các hành giả cùng nhau tuân thủ giới luật của
Phật tức là cùng nhau sách tấn nổ lực thực hành và gìn giữ các nguyên tắc tạo
nên sự trong sáng, thoả mái và hoà đồng
trong đời sống cá nhân và đời sống tập thể.
Yếu tố thứ sáu có công năng quyết định
sự thanh tịnh và hoà hợp của đời sống tập thể là tri kiến
được tu tập và phát huy bởi mỗi thành viên của Tăng đoàn. Tri kiến ở đây tức
trí tuệ thấy rõ tham, sân, si, dục vọng và ngũ kiến, các ác bất thiện pháp
chính là nguyên nhân gây nên phiền toái khổ đau cho mình và người khác, cần phải
nỗ lực dứt trừ. Tri kiến ấy nói rõ người nào thành tựu tri
kiến thì không còn tham, sân, si, không còn dục vọng và ngã kiến, có đời sống thanh
tịnh và từ ái, không còn tạo các chướng duyên gây phiền hà cho người khác. Người
tu tập sống với tri kiến như vậy và cùng khuyến khích nhau nỗ lực hướng đến
thành tựu tri kiến thì Tăng đoàn càng đi đến thanh tịnh và hoà
hợp, càng tỏ rõ sức sống của một tập thể có kiến giải hoà đồng
có tinh thần tu tập, có nổ lực hướng thượng, có cứu cánh giải thoát, có đời sống
an lạc.
Như vậy, lời Phật dạy cho thấy ý thức
tu học của người tu tập thể hiện trong đời sống tập thể đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo nên một Tăng đoàn thanh tịnh và hoà hợp. Người
tu tập mà chuyên tâm thực hành Bát chánh đạo khiến cho giới đức, tâm đức, tuệ đức
đi đến thanh tịnh thì Tăng đoàn trở nên thanh tịnh và hoà hợp.
Nói cách khác, người tu tập càng nỗ lực uốn nắn bản thân
mình, nhiếp phục dục vọng và ngã tưởng, buông bỏ các tập khí tham, sân, si, thì
càng tỏ rõ một đời sống thanh tịnh, dễ dàng hoà hợp với mọi
thành viên khác của Tăng đoàn trong đời sống thực hành ý tưởng giải thoát.
Trong một văn cảnh khác, nói rằng một
Tỳ kheo sống trong Tăng chúng, mong được các Tỳ kheo khác tin tưởng, thương mến
và giảng dạy thì vị ấy cần phải tập uốn nắn bản thân thoát khỏi các cấu uế và
các biểu hiện tiêu cực như ác dục, khen mình chê người, phẫn nộ, hiềm hận, cố
chấp, nói lời phẫn nộ, hư nguỵ não hại, tật đố và gian
tham, gian trá và lừa gạt, ngoan cố và ngã mạn, chống báng và né tránh các cáo
buộc trong những trường hợp vi phạm học giới, chấp trước thế tục, cố chấp tư kiến,
tánh khó hành xả.
Người tu tập mà thường xuyên tỉnh
giác và tự nhắc nhỡ mình, về các phương pháp uốn nắn bản thân, sao cho xứng
đáng là Thích tử có nếp sống trong sáng và hiền thiện, giữa Tăng chúng thì quyết
chắc hướng đi giải thoát thanh tịnh, không còn lo chư Tăng không hoan hỷ và hoà hợp. Nếp sống lục hoà được nỗ lực thực hiện bởi những con người hiểu biết,
chuyên trì uốn nắn để thành tựu thân thanh tịnh, tâm thanh tịnh, ý thanh tịnh để
có được giới thanh tịnh và tuệ thanh tịnh. Đoạn tận các lậu hoặc, đạt đến tâm
giải thoát bất động, hoàn toàn đồng đẳng, không còn khác biệt nào về mặt nào về
mặt giải thoát, hoà hợp với nhau như nước với sữa. Có lòng
tôn trọng nhau, thương mến và hỗ trợ cho nhau trong đời sống tu tập hằng ngày. Nổ
lực nhiếp phục tham, sân, si khiến cho
tâm mình không rơi vào cấu uế, đoạn tận các lậu hoặc, dứt trừ tham, sân, si,
khiến cho tâm đạt đến giải thoát bất động.
Tâm đạt đến giải thoát đoạn tận các lậu
hoặc, dứt sạch tham, sân, si, hoàn thanh tịnh, vắng bặt mọi ý niệm phân biệt,
không có ta và người, không tốt xấu, không thêm bớt, thanh tịnh và hoà hợp thành tựu giải thoát hướng đến Niết Bàn../.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét