GIỚI CẤM THỦ
Giới cấm thủ là một trong mười mắt
xích trói buộc chúng sanh ở trong vòng luân hồi đau khổ, gồm thân kiến, nghi ngờ,
giới cấm thủ, sân hận, sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, trạo cử, vô minh. Đó là một
hình thái tín tưởng mù quáng, chấp trước cực đoan vào các phương tiện dẫn dắt
cuộc sống mà người ta xem như là chân lý tuyệt đối, được biểu hiện qua việc chấp
trì cứng nhắc các tập tục tín ngưỡng, các hình thái nghi lễ tôn giáo hay các
quan điểm tư tưởng triết học. Kinh tạng Pali thường dùng ảnh dụ một chuỗi người
mù ôm lưng nhau quờ quạng bước đi, cả người trước, người giữa lẫn người sau đều
không thấy đường, để nói về thái độ mê chấp cực đoan của những người rơi vào giới
cấm thủ.
Theo quan điểm của đạo Phật thì sở dĩ
chúng sanh bị sanh tử buộc ràng, bị khổ đau chi phối ấy là bởi thái độ chấp trước
mê lầm đối với các dục, đối với nhận thức, đối với niềm tin, đối với bản ngã, gọi
là dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ.
Dục thủ là chấp trước mê lầm đối với
các đối tượng ham thích thuộc giác quan, như sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị
ngon, cảm xúc êm dịu hay tiền tài vật chất, danh vọng quyền lực, sắc đẹp khác
phái, ăn uống no say, ngủ nghỉ êm ái, cho rằng chúng là hạnh phúc tối thượng.
Kiến thủ tức là chấp trước đối với
kinh nghiệm giới hạn hay hiểu biết mê lầm của chính mình, như cho rằng dục lạc
là hạnh phúc tối thượng, Phạm thiên là cảnh giới tối tôn, không có một sự hữu
diệt toàn diện (Niết bàn).
Giới cấm thủ nghĩa là chấp trước cứng
nhắc các hình thức lễ nghi hay các phương tiện tu hành thiếu cân nhắc, như tin
rằng bùa chú có sức mạnh vô biên, nước sông Hằng có khả năng rửa sạch tội lỗi, tu
khổ hạnh có năng lực diệt trừ mọi phiền não khổ đau.
Ngã luận thủ tức là chấp trước quan
niệm có một bản ngã hay linh hồn hiện hữu vĩnh hằng trong con người hay trong mọi
sự vật và hiện tượng, chẳng hạn như các nhà Áo Nghĩa Thư cho rằng có cái nguyên
nhân đầu tiên không sanh không diệt khai sanh ra vũ trụ vạn vật gọi là Brahman
(Đại ngã), ở trong sự vật hiện tượng cái
ấy được gọi là Astman (Tiểu ngã), có cùng bản chất bất sanh bất diệt, thường tại,
vĩnh hằng, giống như Brahman.
Trong bốn chấp thủ nói trên, dục thủ
có công năng nuôi lớn dục tham, trong ba thứ còn lại làm tăng trưởng tà kiến.
Như vậy bốn loại chấp thủ làm lớn mạnh hai yếu tố mê lầm, vô minh và tham ái, dẫn
đến khổ đau, tái sinh. Kinh tạng Pali tuyên cáo: “Vô thỉ là luân hồi này, Này
các Tỳ kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các
chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc”.
Giới cấm thủ là một loại tà kiến phát
xuất từ lòng tin tưởng cực đoan về các phương pháp thực hành thiếu cân nhắc,
thiếu lý trí, được chấp trì bởi những tâm lý nhẹ dạ cả tin và bảo thủ. Đó là sự
tuân thủ cứng nhắc các hình thức lễ nghi tôn giáo hay thực hành các tín điều,
thường được tin là những việc làm thiêng liêng có khả năng rửa sạch lỗi lầm của
con người hoặc khiến con người đạt đến giải thoát. Ví dụ, các Bà la môn rao giảng
đức tin rằng con người có thể làm cho mình trở nên thanh tịnh bằng cách thức dậy
thật sớm rồi gieo mình chạm xuống đất, hoặc chạm phân bò ướt, hoặc chạm cỏ
xanh, hoặc cúng dường lửa, hoặc chấp tay đảnh lễ mặt trời, hoặc xuống nước tắm
ba lần trong mỗi ngày. Các tín đồ Kỳ na giáo thì tin tưởng cứng nhắc vào lối sống
khắc kỷ khổ hạnh, chủ trương cởi bỏ tất cả y phục vào ngày trai giới Uposatha,
cho rằng làm như vậy là thực thi hạnh vô ngã và loại trừ các ác nghiệp.
Đức Phật, bậc đã giác ngộ trọn vẹn về
sự thật khổ đau nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến sự diệt
khổ, khẳng định rằng ngoài nghiệp lực của con người, không có một năng lực nào
khác có quyền năng ban phúc hay giáng hoạ cho con người. Tất
cả khổ đau và hạnh phúc của con người đều do con người quyết định. Chính lối sống
hay hành vi của loài người quyết định thân phận của họ. Con người khổ đau do chấp
trì lối sống mê lầm và hạnh phúc nhờ vào nếp sống sáng suốt. Có một vị thôn trưởng
đến hói Đức Phật:
“Bạch đức Thế Tôn, các vị Bà la môn
trú đất phương Tây, mang theo bình nước, đeo vòng hoa huệ, cho rằng nhờ nước được
thanh tịnh. Những người thờ lửa, khi một người đã chết, đã mệnh chung, họ nhắc
bổng và mang người ấy ra ngoài. Kêu tên vị ấy lên, và dẫn vị ấy vào Thiên giới.
Còn Thế Tôn, bạch Thế Tôn, là bậc A la hán, Chánh đẳng giác, Thế tôn có thể làm
như thế nào cho toàn thế giới, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện
thú, Thiên giới, cõi đời này ? ”
Đức Thế Tôn nói với Thôn trưởng rằng:
Này Thôn trưởng, ở đây, ta sẽ hỏi ông, ông suy nghĩ và trả
lời:
Này Thôn trưởng, ông nghỉ thế nào? một người sát sanh, trộm cắp, tà hạnh trong các dục, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời
thô ác, nói phù phiếm, tham lam, sân hận, theo tà kiến. Rồi quần chúng đông đảo,
tụ tập lại, cầu khẩn, tán dương, chắp tay đi cùng khắp và nói rằng: Mong người này sau khi thân hoại mạng chung,
được sanh lên Thiện thú, thiên giới, cõi đời này! Ông nghỉ thế nào, nầy Thôn
trưởng, người ấy do nhân cầu khẩn của đại quần chúng ấy, hay do nhân tán dương,
hay do nhân dân chắp tay đi cùng khắp, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
lên Thiện thú, thiên giới cõi đời này?
Thôn trưởng trả lời, bạch Thế Tôn,
thưa không được.
Này Thôn trưởng, ví như, có người lấy
một tảng đá to ném xuống một hồ nước sâu. Rồi một số quần chúng đông đảo, tụ tập
lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói rằng: Hãy nói lên tảng đá lớn! hãy nổi lên tảng đá lớn! Hãy trôi vào bờ, tảng
đá lớn! Ông nghỉ thế nào. Này Thôn trưởng,
tảng đá lớn ấy do nhân cầu khẩn của đại quần chúng, hay do nhân tán dương, hay
do nhân chắp tay đi cùng khắp, mà tảng đá đó có thể nổi lên, nổi lên trôi dạt vào bờ được không?
Bạch Thế Tôn, thưa không được ạ.
Cũng vậy, này Thôn trưởng, người nào,
sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, nói lời hung ác, nói lời phù phiếm, tham
lam, sân giận, tà kiến. Rồi quần chúng đông đảo, tụ tập lại cầu khẩn, tán
dương, chấp tay đi cùng khắp và nói rằng:
Mong người này sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên Thiện thú, thiên
giới, cõi đời này! Nhưng người ấy, sau
khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đoạ
xứ, địa ngục..
Này Thôn trưởng, ông nghỉ thế nào, Ở
đây, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ
nói dối, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lưỡi hai chiều, từ bỏ nói lời phù phiếm,
không tham lam, không sân hận, có chánh kiến. Rồi một số quần chúng tụ tập lại,
cầu khẩn, tán dương, chắp tay đi cùng khắp và nói rằng: Mong người này, sau khi thân hoại mạng chung,
sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đoạ xứ, địa ngục ! Ông nghỉ thế
nào, này Thôn trưởng, người ấy do nhân cầu khẩn của quần chúng đông đảo ấy, hay
do nhân tán dương, hay do nhân chấp tay đi cùng khắp, sau khi thân hoại mạng
chung có thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đoạ xứ, địa ngục
không?
Thưa không, bạch Thế Tôn.
Cũng vậy, này Thôn trưởng, ví như có
người đem nhận chìm một ghe dầu đầy vào trong một hồ nước sâu rồi đập bể ghe ấy, ghe ấy bể thành từng mảnh, những mảnh
vụn chìm xuống đáy nước sâu. Còn dầu thời nổi lên trên. Rồi một số quần chúng
đông đảo, tụ tập lại, cầu khẩn, tán dương, chắp tay đi cùng khắp và nói rằng: Hãy chìm xuống này dầu, hãy chìm xuống sâu này dầu. Ông nghỉ
như thế nào, này Thôn trưởng, dầu ấy, do nhân
cầu khẩn của đông đảo quần chúng, do nhân tán dương, do nhân chắp tay đi
cùng khắp, mà dầu đó chìm xuống nước sâu không ?
Thưa không, bạch Thế Tôn.
Cũng vậy, này Thôn trưởng, có người từ bỏ sát, sanh, từ bỏ trộm cắp, từ bỏ tà hạnh,từ bỏ nói dối,
từ bỏ nói lời hung ác, từ bỏ nói lưỡi đôi chiều, từ bỏ nói lời phù phiếm, không
tham, không sân, theo chánh kiến. Rồi một số quần chúng đông đảo, tụ tập lại, cầu
khẩn, tán dương, chắp tay đi cùng khắp và nói: Mong người này sau khi thân hoại
mạng chung, sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đoạ xứ, địa ngục!
Nhưng người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh lên thiện thú, Thiên giới,
cõi đời này.
Với quan niệm nghiệp dẫn dắt và quyết
định vận mệnh của chúng sanh, Đức Phật chủ trương từ bỏ ác nghiệp, thực thi thiện
nghiệp, được thể hiện qua lối sống Bát chánh đạo. Con đường giải thoát khổ đau
do Đức Phật chứng ngộ và giảng dạy không gì khác là phát huy các tiềm năng giác
ngộ vốn có sẵn trong mỗi chúng sanh, làm lớn mạnh giới đức, tâm đức và tuệ đức
của con người bằng lối sống trung đạo. Đức Phật không tán thành các hình thức lễ
nghi cầu cạnh sự gia ân của người khác hay các phương pháp hành trì mê lầm.
Ngài không chấp nhận tập tục hiến tế sinh vật nhẫn tâm của các Bà la môn và phê
phán thái độ chấp trì cực đoan các pháp tu khổ hạnh thiếu suy xét của các tín đồ
Kỳ na giáo. Theo lời Ngài, con người không thật sự an lạc khi gây tổn hại cho kẻ
khác và tự huỷ hoại chính mình. Một hôm, trông thấy các tu
sĩ Nigantha đang thực hành pháp khổ hạnh thống khổ khốc liệt, bậc Giác ngộ bèn
lên tiếng:
“Chư hiền, tại sao các Ngươi lại đứng
thẳng người, không chịu ngồi xuống và cảm giác những cảm thọ thống thiết, khổ
đau, khốc liệt, bén nhạy như thế ?
Này Hiền giả Nigantha Nataputta là bậc
toàn trí, toàn kiến, tự xưng là có tri kiến toàn diện như sau. Dầu ta có đi, có
đứng, có ngủ và có thức, tri kiến luôn luôn tồn tại liên tục ở nơi ta. Vị ấy
nói như sau: Này các Nigantha
Nataputta là bậc toàn trí, toàn kiến, tự
xưng là có tri kiến toàn diện như sau: Dầu ta có đi, có đứng, có ngủ và có thức,
tri kiến luôn luôn được tồn tại liên tục nơi ta. Vị ấy nói: Này các Nigantha, nếu xưa kia Người có làm ác nghiệp,
hãy làm cho nghiệp ấy tiêu mòn bằng khổ hạnh khốc liệt này. Sự không làm ác
nghiệp trong tương lai chính do sự hộ trì về thân, sự hộ trì về lời nói, sự hộ trì
về ý ngay trong hiện tại, ở tại nơi đây. Như vậy chính nhờ sự thiêu đốt, sự chấm
dứt các nghiệp quá khứ, sự không làm các nghiệp mới, mà không có sự tiếp tục
trong tương lai. Do sự không có tiếp tục trong tương lai, các nghiệp được diệt
trừ, do nghiệp được diệt trừ, khổ được diệt trừ, do khổ được diệt trừ, cảm thọ
được diệt trừ, do cảm thọ được diệt trừ, tất cả khổ đau sẽ được tiêu mòn. Và vì
chúng tôi chấp nhận điều ấy, và chúng tôi kham nhẫn điều ấy, nên chúng tôi được
hoan hỷ.
Nhìn chung, giới cấm thủ là một hình
thái tin tưởng và chấp trì cực đoan về các phương pháp dẫn dắt cuộc sống mà người
ta tin là có khả năng mang lại lợi lạc cho đời sống con người. Được biểu hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau, giới cấm thủ không gì khác là một niềm tin mơ hồ,
một đường lối tu tập thiếu suy xét về căn nguyên khổ đau và biện pháp khắc phục,
càng chấp trì thời đời sống con người càng thêm mơ hồ và rối ren như cuộn chỉ.
Kinh tạng Pali gọi thái độ mê chấp như vậy là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang
vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược, tức một loại tin tưởng hay
hiểu biết mê lầm, u ám như rừng rậm, hoang vu như sa mạc, trống rỗng như ảo thuật,
đưa đến tranh chấp, trói buộc con người vào khổ đau.
Để nhiếp phục và vượt qua giới cấm thủ,
nghĩa là thoát khỏi sự tin tưởng cực đoan vào các phương pháp hành trì mê lầm dẫn
đến phiền não khổ đau. Đức Phật khuyên mọi người nên biết học hỏi và suy xét về
bốn chân lý Khổ, Tập, Diệt, Đạo để thấy rõ khổ đau, căn nguyên của khổ đau, sự
khổ diệt và cách thức diệt trừ khổ đau. Có như thế mới hiểu đúng thế nào là khổ
đau và cách thức đi ra khỏi khổ đau. Nói khác đi, con người cần nhận ra rằng có
con đường đưa đến trói buộc khổ đau và
con đường khác đi ra khỏi khổ đau. Tất cả khổ đau và giải thoát đều tuỳ thuộc vào trí năng phán xét và lối sống của con người. Nếu
thiếu hiểu biết mà để đời mình rơi vào tà đạo, tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà
nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định- tức là mời gọi khổ đau, tựa như
người cần sữa mà tìm đến sừng bò để vét sữa thì không thực hành đúng cách để lấy
sữa.. Trái lại, có hiểu biết sáng suốt đi theo chánh đạo, chánh kiến, chánh tư
duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định-
tức là thoát ly khổ đau, giống như người tìm sữa đúng cách biết đi đến vú bò để
vét sữa vậy. Bậc Giác ngộ tuyên thuyết đạo giải thoát, không chú trọng vào đức
tin hay lời ước nguyện, chỉ đề cao phương pháp thực hành đúng đắn
và giá trị thực tiễn của việc chấp trì chánh đạo./.
(Trích: Giới cấm thủ:
Diệu Thiện – VHPG số: 317 -15-3-2019)
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét