YẾT MA (HỘI NGHỊ
hay NGHỊ SỰ)
Yết ma dịch âm chữ Phạn Karma, dịch ý là “Nghiệp”,
nghĩa là thọ giới, thuyết giới, sám tội, và các thứ xử lý của Tăng sự, vì thế
còn được giải là “Biện sự” hoặc “Tác sự”. Đây thuộc về giới tác trì.
Giải thích theo thuật ngữ hiện đại, yết ma của
Phật giáo là một thứ pháp nghị sự hoặc pháp hội nghị riêng của Phật giáo. Tính
trọng yếu của pháp yết ma trong Phật giáo tương đương như tính trọng yếu của
dân quyền kiến thiết ở bước đầu của chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Không
có pháp nghị sự kiện toàn chắc chắn sẽ khó sinh ra chế độ dân chủ lý tưởng.
Tăng đoàn Phật giáo hoàn toàn hợp được với tinh thần dân chủ là do công hiệu của
Pháp yết ma. Nội dung của chế độ dân chủ là dân trị, dân hữu, dân hưởng. Mục
đích của pháp yết ma trong Phật giáo là tạo thành lục chuẩn hoà
kính, từ trên nguyên tắc mà nói, Lục hoà kính của Phật giáo là sinh hoạt dân chủ của dân chủ tuyệt
đối. Sự duy trì và bảo hộ một tinh thần dân chủ này là trách nhiệm và công năng
của pháp yết ma. Thông thường nói “Tăng sự Tăng đoàn” cũng là lấy ý kiến và lực
lượng của đại chúng Tăng đoàn, đoàn kết được đại chúng trong Tăng đoàn là nhờ
pháp yết ma, trừ khử ác nghiệp cũng phải nhờ pháp yết ma. Chủ thể của thành thiện
khử ác tuy là đại chúng trong Tăng đoàn, nhưng đại chúng trong Tăng đoàn thành
thiện khử ác được là nhờ pháp yết ma mà thành. Vì thế một đoàn thể không có hội nghị quyết chắc không phải là
đoàn thể của dân chủ. Một Tăng đoàn không cử hành pháp yết ma không thể là Tăng
đoàn của lục hoà kính.
Chúng loại của
pháp yết ma (phân ra có 101 thứ chia làm ba loại lớn)
1/ Đơn bạch yết ma: Gọi là Bạch nhất yết ma,
nghĩa là “Xướng ngôn” đây là đối với việc
không cần trưng cầu đồng ý, hướng về đại chúng tuyên cáo việc thường làm, quen
làm và cần phải làm, nói lên một lần là thành (có 24 thứ).
2/ Bạch nhị yết
ma: Đây là tuyên cáo một lần rồi nói lại
một lần nữa để trưng cầu sự đồng ý của đại chúng (gồm 47 thứ).
3/ Bạch tứ yết
ma: Đây là trước tiên tuyên cáo một lần,
ba lần trưng cầu đồng ý. Nếu như nhất bạch tam yết ma xong, trong chúng im lặng
là biểu thị không có dị nghị mà tuyên bố yết ma đúng như pháp, nghị án thành lập
nhất trí thông qua (gồm có 30 thứ).
Tinh thần của pháp yết ma so với trình tự hội
nghị của hiện đại thì trang nghiêm và thiêng liêng hơn. Đề án hội nghị của hiện
đại thông thường là 2/3 số phiếu tán thành thì được thông qua, có khi chỉ cần ½
là chuẩn, có khỉ chỉ cần ¾ là chuẩn, nhưng rất ít khi nào yêu cầu nhất trí
thông qua. Trong Tăng chỉ cần có một người dị nghị là Tăng không hoà hợp, thì yết ma không thành.
Nhưng trong
pháp yết ma cũng có quy định phàm pháp yết ma đúng như pháp, như luật, không
cho phép vô lý kình chống mà phá hoại. Nếu có một người vô lý kình chống, phá
hoại pháp yết ma đúng như pháp như luật, thì Tăng đoàn có thể làm pháp yết ma đối
với người ấy. Như có một tập đoàn nhỏ 4 người trở lên kình chống làm yết ma
riêng thì phạm tội phá yết ma Tăng. Vì thế, pháp yết ma của Phật giáo là một thứ
pháp nghị sự cực kỳ thiêng liêng và rất chu đáo tỏ tường.
Sự quy định của
pháp yết ma là dùng để phán đoán yết ma có hợp với sự yêu cầu hay không. Sự quy
định ấy cần phải đủ 4 điều kiện yết ma mới thành lập được, 4 điều kiện ấy
là:
1/ Pháp: Tức
là bản thân của pháp yết ma phải là phát xuất từ trong chuẩn loại của pháp yết
ma. Pháp có ba loại: Tâm niệm pháp, đối thủ pháp, chúng pháp.
2/ Sự: Hoặc sự của phạm tội, hoặc sự của sám hối, hoặc
sự của thọ giới, đó là những điều cần phải cử hành pháp yết ma. Sự có ba loại.
Hữu tình sự, Phi tình sự, tình phi tình hợp sự.
3/ Nhân: Nhân số tham dự phải được quy định trong khi
cử hành pháp yết ma nào đó, tức là số người. Người có 6 đại loại: 1 người, 2
người, 4 người, 5 người, 10 người, 20 người.
4/ Xứ: Cử
hành yết ma cần phải có xứ sở, một xứ sở này gọi là giới. Giới có phân ranh làm
hai đại loại: Tác pháp giới và tự nhiên giới. Tác pháp giới lại phân làm ba thứ:
Đại giới, Giới tràng, Tiểu giới. Tự nhiên giới cũng phân ra có 4 thứ: Tụ lạc (xóm làng), Lan nhã, đạo hành, thuỷ giới. Làm một chuẩn loại yết ma nào cũng đều có giới
riêng dùng để quy định.
Bốn điều kiện
này hợp lại đưa ra một thí dụ. Tỷ như thọ giới. Bản thân thọ giới là sự, Nghi
thức truyền giới là pháp, Hoà Thượng A Xà Lê tham dự là
Nhân, giới tràng thọ giới là Xứ. Nói về số người tham dự yết ma gồm có 6 loại:
1/ Một người:
Đây là tâm niệm Pháp, Tỷ như Tỳ kheo tự trách, sám trừ lỡ phạm tội Đột kiết la.
Thật ra, trường hợp này chưa nhập vào pháp yết ma.
2/ Hai người: Đây là đối thủ pháp, một Tỳ kheo đối
với một Tỳ kheo thanh tịnh khác làm, như sám trừ tội Ba đật đề. Nói một cách
nghiêm khắc thì trường hợp này cũng chưa nhập vào pháp yết ma.
3/ Bốn người:
Trừ không thể xuất tội tăng tàn thọ giới, biên địa thọ giới tự tứ ra, tất cả yết
ma đều có thể 4 người thành tựu.
4/ Năm người:
Đây là số người tối thiểu, của Tự tứ yết ma và biên địa thọ giới yết ma.Trừ
không thể xuất tội Tăng tàn và thọ giới ra, tất cả yết ma đều có thể năm người
thành tựu.
5/ Mười người:
Trừ không thể xuất tội Tăng tàn ra, tất cả yết ma đều có thể thành tựu, chủ yếu
là số người cần thiết để truyền giới cụ túc.
6/ Hai mươi người: Đây là số người tối thiểu để
xuất tội Tăng tàn, và là số người có thể thành tựu tất cả yết ma.
Nhưng, phần tử được tham gia yết ma, trong Tỳ
kheo Tăng phải là Tỳ kheo thanh tịnh. Tỳ kheo phạm mà chưa sám trừ, không đủ số
cũng không được tham dự. Tỳ keo ni, thức xoa ma na ni, Sa di ni, cho đến tất cả
người tục, dù không đủ số, cũng không được tham gia. Yết ma của Tỳ kheo ni, Tỳ
kheo cũng không được tham gia.
Nhưng
hai bộ Tăng Ni đều riêng có ba thứ yết ma tương đối thực hành.
1/ Tỳ kheo có
thể vì Ni chúng làm thọ giới yết ma, Ma na đoả (Ni phạm tội
Tăng tàn làm 35 điều tuỳ chúng ý) yết ma xuất tội (Tăng tàn) yết ma.
2/ Tỳ kheo ni
có thể làm ba pháp yết ma đối với Tỳ kheo là không lễ bái, không cùng nói chuyện,
không kính sợ. Giả như Tỳ kheo vô lý xúc phạm Tỳ kheo Ni, Tỳ kheo Ni có thể
dùng ba pháp yết ma này đối phó Tỳ kheo.
Chỗ bất đồng là Tỳ kheo vì Tỳ kheo Ni làm ba
thứ yết ma, Tỳ kheo ni phải hiện diện trước Tỳ kheo, Tỳ kheo ni vì Tỳ kheo làm
ba thứ yết ma, Tỳ kheo không cần phải hiện diện trước Tỳ kheo Ni.
Tóm lại Yết ma là sự đồng ý của tập thể Tăng.
Vì mọi sự mọi việc do Tăng quyết định chấp thuận thì việc đó thành, bằng không
thì gọi là phi pháp.
Yết ma phiên
âm từ Karmam của tiếng Phạn. Hán dịch là
“Biện sự tác pháp” dịch nghĩa là “Vạn sự
do tư thành biện cố”. Nghĩa là tất cả công việc của Tăng đều do đây mà được
thành tựu mỹ mãn. Nghĩa đen của Yết ma có nghĩa là hành động hay hành vi. Hành
động hay hành vi này thuộc về tập thể Tăng, chứ không phải cá nhân.
Tất cả mọi
sinh hoạt lớn trong đại chúng thuộc về sinh hoạt của Tăng mà thành tựu được là
nhờ phương pháp gọi là Tăng Pháp Yết ma. Chính trong ý nghĩa ước lệ này mà pháp
Yết ma có hiệu lực để tạo thành bản thể sinh động của Tăng. Vậy thành phần của
Tăng gồm có các Tỳ kheo. Yết ma là sự biểu hiện tuyệt đối của sự thống nhất ý
chí của Tăng./.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét