ĐIỀU KIỆN QUYẾT ĐỊNH TRƯỚC KHI TU TẬP
a/ Tin sâu nhân quả: Bất luận
người nào, nếu muốn dụng công tu tập trước cần phải tin sâu nhân quả. Nếu không
tin nhân quả, thực hành càng bướng, không những tu hành chẳng thành công mà tam
đồ cũng khó tránh. Cổ đức nói: “Muốn biết nhân đời trước hãy xem sự lãnh thọ đời
nay, muốn biết quả đời sau hãy nhìn sự gây tạo hiện tại”. Lại nói: “Giả sử đã tạo
nghiệp trăm ngàn kiếp vẫn không mất, khi
nhân duyên hội ngộ quả báo trở lại tự chịu”. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nhân địa
không ngay, quả báo cong vậy”. Cho nên gieo nhân lành kết quả lành, gieo nhân
ác kết quả ác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu là đạo lý tất nhiên vậy.
Chuyện vua Lưu Ly giết
dòng họ Thích. Trước Đức Phật Thích Ca ra đời, trong thành Ca Tỳ La Vệ có một
làng chài lưới, trong làng có một cái hồ to. Khi ấy trời hạn nước cạn bao nhiêu
cá trong ao bị người làng bắt ăn hết, sau cùng còn lại một con cá rất to cũng bị
dân làng bắt làm thịt luôn. Trong làng chỉ có một đứa bé lâu nay không ăn thịt
cá, hôm ấy đến thấy con cá to, lấy cây gõ trên đầu nó ba cái rồi bỏ đi. Sau này
khi Đức Thích Ca ra đời, Vua Ba Tư Nặc rất kính tin Phật pháp,nên cưới con gái
dòng họ Thích làm vợ, sanh được một thái tử đặt tên là Tỳ Lưu Ly. Lúc thơ ấu,
Lưu Ly ở bên ngoại tại thành Ca Tỳ La Vệ học, một hôm nhân giởn chơi trèo lên
tòa của Phật ngồi, bị người họ Thích rầy mắng kéo lôi xuống, nên ôm lòng uất hận.
Đến khi Lưu Ly lên làm vua, xuất đại binh đánh thành Ca Tỳ La Vệ, bắt hết dân
cư trong thành giết sạch, chính khi ấy đức Thích Ca nhức đầu ba ngày. Các vị đệ
tử lớn của Phật cầu xin Phật tìm cách giải cứu dòng họ Thích. Phật nói: “Định
nghiệp khó chuyển”. Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông lấy bình bát đến thâu
500 người dòng họ Thích đem để trên không trung, khi giặc qua, Ngài đem xuống
thả ra, không ngờ khi trút bát thấy tất cả
đều biến thành máu. Các đệ tử đến thưa hỏi Phật, Phật đem việc xưa dân
trong làng ăn cá thuật lại. Con cá lớn ngày xưa là vua Lưu Ly hiện nay, quân đội
của vua Lưu Ly đều là những con cá nhỏ ở trong hồ. Dân cư trong thành Ca Tỳ La
Vệ bị giết đều là người ăn cá ngày xưa. Thân Phật chính là đứa bé gõ đầu cá ba
cái ngày xưa, nên hiện nay bị quả báo nhức đầu ba ngày. Vì định nghiệp khó
tránh nên 500 người dòng họ Thích tuy được tôn giả Mục Kiền Liên cứu thoát,
cũng không bảo tồn được tánh mạng. Sau này Lưu Ly bị đọa địa ngục, oan oan
tương báo không biết bao giờ hết được. Nhân quả thật đáng ghê sợ vậy.
Chuyện Bách Trượng độ Hồ
Ly: Bách Trượng nhân một hôm vào nhà giảng, giảng xong các thính giả ra hết, chỉ
còn lại một ông già không lui đi. Ngài Bá Trượng hỏi: “Ông còn muốn hỏi gì? ”.
Ông ấy thưa: “Con là Dã Hồ Tinh không phải là người, đời trước con vốn làm Đường đầu (Trí Thức) ở đây, nhân có người học,
hỏi con: Bậc đại tu hành lại rơi vào luật nhân quả chăng? Con đáp: Không rơi vào luật nhân quả. Do đó,
con đọa lạc làm Dã hồ tinh đã 500 năm,
không có cách nào thoát thân, mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy cho”. Ngài Bá Trượng
bảo: “Ngươi hỏi lại ta”. Ông ấy bèn hỏi: “Bạch Hòa thượng, Bậc đại tu hành lại
rơi vào nhân quả chăng?”. Tổ Bá Trượng đáp: “Không lầm nhân quả”. Ông già nghe
câu này liền đại ngộ, ông lễ tạ thưa: “Nay nương lời đáp của Hòa thượng, khiến
con siêu thoát thân Dã hồ, con ở hang sau núi, mong Hòa thượng lấy lễ tống táng
theo nhà sư cho con”. Hôm sau Tổ Bá Trượng
lại hang sau núi, lấy gậy bới ra
có xác con chồn, bèn dùng lễ theo nhà sư mà an táng.
Qua hay câu chuyện xưa này càng thấy rõ nhân quả đáng sợ, tuy
thành Phật vẫn khó khỏi quả báo nhức đầu, sự báo ứng một mảy may không sai lạc,
định nghiệp thật khó tránh, chúng ta gắng cẩn thận, gắng dè dặt chớ có gây
nhân.
b/ Nghiêm trì giới luật: Dụng
công tu hành trước nhất phải trì giới. Giới là cội gốc của Vô thượng Bồ đề,
nhân giới sanh đinh, nhân định phát huệ, nếu không trì giới mà tu hành thì
không thể được. Trong kinh Lăng Nghiêm dạy rõ bốn món thanh tịnh, dạy rằng: “Không
trì giới mà tu chánh định, không thể thoát khỏi trần lao, dù hiện tiền có nhiều
trí tuệ, nhiều thiền định cũng rơi vào tà ma ngoại đạo”. Đó nên biết, trì giới
là trọng yếu, người trì giới Long thiên ủng hộ, ma ngoại kính sợ. Người phá giới,
bọn quỷ gọi là giặc lớn. nó quét dấu chân của người ấy. Ngày xưa tại nước Kế
Tân, gần bên đất già lam, có một con độc long thường khi ra nhiễu hại dân chúng
đại phương. Có 500 vị A La Hán nhóm họp một chỗ dùng sức thiền định đuổi nó đi,
rốt cuộc không hiệu quả gì cả. Sau có một vị tăng không cần nhập định, chỉ đến
gần con độc long nói một câu: “Hiền thiện ! hãy tránh xa chỗ này đi ”, con độc
long liền đi mất. Các vị A La Hán hỏi vị Tăng ấy, Ông dùng thần thông gì để đuổi
được con độc long? Vị Tăng đáp: “Tôi
không dùng sức thiền định, chỉ cẩn thận đối với giới, gìn giữ giới khinh cũng
như giới trọng”. Chúng ta tưởng tượng sức thiền định của 500 vị A La Hán mà
không bằng một vị Tăng nghiêm trì giới luật.
Hoặc có người bảo rằng:
“Lục tổ nói, Tâm bình đâu cần trì giới, hạnh thẳng nào dùng tham thiền”. Tôi
xin hỏi ông. Tâm ông đã bình, hạnh ông đã thẳng chưa? Giả sử có người con gái đẹp
lõa thể đến ôm ông, ông có thể không động tâm
chăng? Có người vô lý mạ nhục đánh đập ông, ông có thể không sanh tâm
sân hận chăng. Ông đã đạt được chỗ không
phân biệt oán thân, thương ghét, nhân ngã, phải quấy chưa? Cẩn thận khi làm được
mới nói những lời to ấy, nếu làm không được mà nói chỉ là nói suông.
c/ Tín tâm kiên cố: Có ý dụng công tu tập trước cần phải có lòng
tin bền chặt. Lòng tin là đầu của Đạo, là mẹ của các công đức. Bất luận làm việc
gì không có lòng tin thì làm không xong. Chúng ta cốt liễu thoát sanh tử, điều cần thiết phải
có lòng tin bền chặt. Phật nói: “Tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ Như
Lai, chỉ vì do vọng tưởng chấp trước không thể chứng được”. Phật dạy các thứ
pháp môn để đối trị tâm bệnh của chúng sanh. Chúng ta nên tin lời Phật nói
không hư dối, tin chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Sở dĩ chúng ta chưa được
thành Phật, đều do chưa triệt để dụng công như pháp mà thôi. Ví như ta tin đậu
nành làm thành đậu hủ được, nếu ta không
ra công xay nấu đậu hủ, thì đậu nành tự nó không thể biến thành đậu hủ được. Nếu
chúng ta nấu đậu hủ mà không để thạch cao không đúng lượng, đậu hủ cũng không
thể thành. Nếu ta nấu đúng pháp, đổ thạch cao đúng lượng quyết định sẽ thành đậu
hủ. Người tu hành cũng như thế, không dụng công tu tập cố nhiên không thành Phật,
dụng công không đúng pháp, Phật cũng không thể thành. Nếu người tu hành đúng
pháp không lui không thối, quyết định người này sẽ thành Phật. Cho nên chúng ta
cần phải tin chính mình xưa này là Phật, lại tin sâu y giáo pháp Phật dạy tu
hành quyết định sẽ thành Phật. Vĩnh Gia thiền sư nói: “Chứng thật tướng không
nhân pháp, sát na diệt hết nghiệp A Tỳ,
nếu dùng lời vọng dối chúng sanh, tự chuốc địa ngục trần sa kiếp”. Ngài Vĩnh
Gia vì lòng từ bi, cốt định chắt lòng tin cho người đời sau, nên phát nguyện rộng
lớn như vậy.
d/ Quyết định pháp môn tu
hành: Lòng tin đã đủ, lại nên chọn một
pháp môn để tu trì, cần phải không được sớm Tần chiều Sở. Bất luận niệm Phật
cũng tốt, trì chú cũng tốt, tham thiền cũng tốt, điều cần thiết là nhận định một
pháp môn thẳng đó tiến tu hằng không lui sụt. Ngày nay chưa thành công, ngày
mai vẫn tiến hành như thế, năm nay chưa
thành công, năm tới vẫn tiến hành như thế, đời nay chưa thành công, đời sau vẫn
tiến hành như thế. Quy Sơn Lão Nhân nói:
“Đời đời nếu không lui sụt, quả Phật quyết định có ngày ”. Có số người làm mà
không chú ý quyết định, ngày nay nghe vị thiện tri thức này nói niệm Phật hay,
liền niệm Phật được vài ngày, ngày mai nghe vị thiện tri thức kia nói tham thiền
hay lại tham thiền vài ngày. Sang Đông tìm Tây, suốt một đời kiếm tìm đến chết
mà không được một chút kết quả rất uổng thay.
2 - Phương pháp tu: Pháp
môn dụng công tuy nhiều mà chư Phật, Tổ sư đều cho tham thiền là vô thượng diệu
môn. Trên hội Lăng Nghiêm Phật dạy Bồ
tát Văn Thù chọn môn viên thông, Ngài Văn Thù chọn môn nhĩ căn viên thông của Bồ
Tát Quán Thế Âm là bậc nhất hơn cả. Chúng ta cần “Phản văn, văn tự tánh” (xoay
cái nghe nghe tự tánh), chính là tham thiền. Trong thiền đường này nên giảng một
pháp môn tham thiền.
a/ Tọa thiền nên biết: Bình thường nhật dụng đều là hành đạo, như vậy
chỗ nào không phải là đạo tràng. Cần gì thiết lập thiền đường, cũng không phải
tọa thiền mới là thiền. Nói thiền đường, nói tọa thiền chẳng qua vì chúng ta là
chúng sanh trong thời mạt pháp, chướng sâu huệ cạn mà thiết lập.
Tọa thiền cần hiểu rõ
cách điều dưỡng thân tâm. Nếu không khéo điều, hại nhỏ là sanh bệnh, hại to là
bị ma, thật đáng tiếc vậy. Trong thiền đường đi kinh hành, hoặc tọa thiền chỗ dụng
ý chính là điều thân tâm, phương pháp điều thân tâm rất nhiều, nay chọn lọc những
điều cần yếu lược nói.
Khi ngồi kiết già phải
theo thứ tự, giữ tự nhiên và ngồi ngay thẳng. Không được để ý ểnh lưng thẳng
lên, nếu ểnh thẳng lưng hơi nóng xông lên tụ lại lâu ngày, con mắt sanh nhiều
ghèn, miệng hôi, đầu nóng, không muốn ăn uống, quá lắm đến thổ huyết. Lại không
được để lưng cong đầu cúi nhiều, nếu vậy dễ sanh hôn trầm. Như biết khi hôn trầm
tới, mở mắt to ra, ểnh lưng một cái và động nhẹ nhẹ hai bên hông, hôn trầm tự
nhiên tiêu diệt.
Nếu dụng công cấp bách quá, khi nghe trong lòng bức rứt nên bỏ hết
mọi việc và xả luôn cả dụng công, dừng nghỉ độ
năm mười phút, dần dần thư thái, nhiên hậu đề khởi dụng công. Nếu không
như vậy, dồn chứa lâu ngày biến thành tánh nóng nảy dễ sân, thậm chí phát cuồng bị ma. Tọa thiền khi có chút thọ dụng (thấy cảnh giới
lạ) cảnh giới phát hiện rất nhiều nói không thể hết, chỉ ta không chấp trước cảnh
giới ấy thì nó không làm trở ngại ta được. Lời tục nói: “Thấy quái ta không
quái, quái tự mất”. Trông thấy yêu ma quỉ quái đến nhiễu hại ta, ta không cần
quan tâm đến nó, cũng không sợ nó hại. Chính thấy đức Phật Thích Ca đến rờ đầu
thọ ký, ta cũng không quan tâm đến, chẳng sanh vui mừng. Kinh Lăng Nghiêm nói:
“Không khởi tâm cho mình chứng thánh là cảnh giới lành, khởi tâm cho mình chứng
thánh tức lạc quần tà ”.
b/ Hạ thủ công phu: Biết chủ và khách. Khách và trần dụ vọng tưởng, chủ và hư không
dụ tự tánh. Người chủ thì thường ở, không phải như khách hoặc đi hoặc đến, đó
là dụ tự tánh thường trụ vốn không theo vọng tưởng chợt sanh chợt diệt. nên
nói: “Chỉ tự vô tâm với vạn vật, ngại gì
vạn vật thường nhiễu loạn”. Tính chất vi trần tự diêu động vẫn không làm ngại được cái yên
lặng của hư không. Dụ vọng tưởng tánh nó sanh diệt vẫn không làm ngại được tự
tánh như như bất động. Nên nói: “Một tâm
không sanh muôn pháp chẳng lỗi lầm”.
Trong đây chữ Khách so phần
thô, chữ Trần so phần tế. Người mới phát tâm trước nhận rõ chủ và khách, tự
không bị nó kéo lôi, tiến lên nhận rõ ràng không và trần, vọng tưởng không thể
làm chướng ngại. Nên nói: “Biết được,
không phải oán”. Người hay xét kỷ lãnh hội được chỗ này, sự dụng công tu hành rất
chóng tiến.
c/ Tâm thiết tha vì sanh tử cùng phát tâm lâu dài:
Tu hành rất cần tâm thiết
tha vì sanh tử và phát tâm lâu dài. Nếu đối với sự sanh tử không thiết tha thì
nghi tình không phát, công phu khó đạt. Nếu không phát tâm lâu dài một nóng mười
lạnh thì công phu cũng không thành phiến. Chỉ cần có tâm tha thiết lâu dài thì
huệ tâm mới phát. Khi huệ tâm phát thì trần lao phiền não không dứt cũng tự trừ.
Khi thời tiết nhân duyên đến tự nhiên nước tu thành ngòi.
Câu chuyện về thiết tha
cái chết (sợ chết) Đời nhà Thanh bên
Trung Quốc năm Canh Tý, Liên quân tám nước vào kinh đô, vua Quang Tự và Từ Hy
Thái Hậu phải bỏ thành chạy trốn giặc. Giữa đường gặp một đoạn phải chạy bộ về Thiểm Tây, mỗi ngày chạy mấy mươi
cây số, luôn mấy ngày không cơm. Trên đường gặp một ông già đem dâng cho vua
Quang Tự một miếng khoai rừng, ăn xong vua hỏi người ấy: “Thứ gì ăn ngon lắm vậy”.
Chúng ta thử nghĩ, Hoàng đế ngày thường rất kiểu cách, rất oai phong, đâu từng
đi bộ hơn mấy bước, chưa từng đói quá nữa bụng, chưa từng ăn hết một miếng
khoai rừng. Đến lúc này, kiểu cách chẳng có, oai phong không còn, lội bộ cũng
được, bụng đói cũng chịu, ăn rễ rau cũng ngon, vì sao mà ông bỏ hết được? Vì Liên quân đuổi bắt ông, ông nhất tâm chạy chết. Đến sau được nghị hòa, ông ngự giá về kinh,
kiểu cách lại khởi, oai phong lại hiện, đi bộ không nổi, bụng đói không được,
cái gì không ngon thì nuốt không trôi. Sở dĩ như thế, tại khi này ông buông
không hết, vì Liên quân không còn đuổi bắt ông. Ông không có tâm chạy chết. Giả
sử ông thường đem cái tâm chạy chết ấy mà tu hành thì thế nào không thành công,
đáng tiếc ông không có cái tâm lâu dài, gặp thuận cảnh thì thái độ củ lại bộc
khởi.
Người tu luôn luôn cảnh
giác. Bọn quỷ vô thường luôn theo đuổi sanh mạng chúng ta. Quỷ vô thường (quỷ
chết) là loại quỷ không mời mà đến,
không bao giờ chị “nghị hòa”. Chúng ta cần phải phát tâm tha thiết lâu dài để
giải thoát vòng sanh tử. Người tu cần phải khắc định ngày thành công, giống như
người rơi xuống giếng sâu ngàn trượng, từ sáng đến chiều, từ chiều đến sáng
muôn ngàn tư tưởng chỉ chăm một việc mong ra khỏi giếng, trọn không có niệm thứ
hai. Người thực hành như vậy, trước sau cũng triệt ngộ.
Dụng công: Cái thông bệnh
của người sơ dụng tâm là vọng tưởng, tập khí không buông hết, vô minh, cao mạn,
tật đố, chướng ngại, tham, sân, si, ái luyến, lười biếng, ăn ngon, phải quấy, nhân ngã đầy bụng làm sao
tương ưng với Đạo? Như có người đã từng là công tử hay ca sĩ mà tu học thì tập
khí khó quên, một chút khổ nhọc chịu không nổi, một miếng không ngon nuốt chẳng
vô, làm sao dụng công tu hành. Người này không tưởng nhớ đức Bổn Sư Thích Ca
là hạng nào đi tu mà chịu khó khổ như vậy? Hoặc có người biết chút ít
văn tự bèn tầm chương trích cú đem những lời nói cổ nhân ra phân tích rồi cho
mình là hoàn toàn hiểu biết sanh đại ngã mạn, nhưng đến khi bệnh nặng thì rên
xiết suốt ngày, hoặc đến lúc sắp lâm chung thì tay co chân rút, bình sanh chỗ
hiểu biết không thực hành được một điểm, đến khi hấp hối ăn năng sao kịp. Hoặc có người có chút đạo tâm lại không hiểu
rõ chỗ hạ thủ công phu. Có người sợ vọng tưởng cố trừ mà trừ không được, trọn
ngày buồn rầu bực tức tự hận nghiệp chướng nặng
nề, nhân đó thối thất đạo tâm. Hoặc có người quyết cùng vọng tưởng chiến
đấu, chăm bẳm chống tay xông hơi, ưởn ngực trừng mắt giống vẻ hầm hầm của tên
gám sát, quyết cùng vọng tưởng một còn một mất, họ đâu biết như vậy, vọng tưởng
đã đuỗi không được, trở lại mang bệnh thổ huyết,phát cuồng. Hoặc có người khởi
tâm cầu ngộ, ngờ đâu cầu ngộ đạo mong thành Phật đều là đại vọng tưởng, cát
không phải là cơm, cầu bao nhiêu năm quyết định cũng không ngộ. Hoặc có người chợt
được yên tịnh một vài cây hương bèn sanh vui mừng, ấy chỉ là con rùa đen mù tìm
bộng cây, ngẫu nhiên đụng nhằm chẳng phải là công phu thật, mà vui mừng sớm đã
nhập vào tâm vậy. Hoặc có người trong chỗ yên tỉnh biết được thanh tịnh rất thích trong chỗ động thì mất thanh tịnh,
nhân đó tránh chỗ ồn náo tìm chỗ yên tịnh, ấy là đã sớm thành quyến thuộc của
hai thứ ma vương động tỉnh. Các người như vậy thật rất là nhiều. Kẻ sơ dụng
tâm không thấu rõ đường lối tu tập thật
là khó. Có giác mà không chiếu thì tán loạn không thể “đến nhà ”, có chiếu mà
không giác lại ngồi chết chìm trong nước chết.
b/ Dụng công tuy nói khó, nhưng hiểu rõ đường lối lại rất dễ: Tị
sao sơ dụng tâm là dễ? không có gì khó, buông hết liền được. Buông hết cái gì?
Buông hết tất cả vô minh phiền não. Làm sao buông hết được? Chúng ta coi thân
này như chết vậy. Ông thử chữi thây chết bao nhiêu câu nó cũng không phát giận,
đánh mấy gậy nó cũng không chống cự. Lúc sống ưa phá vô minh bây giờ cũng không
phá, lúc sống ưa danh lợi khi này cũng không màng, lúc sống nhiều thứ tập nhiễm
khi này không có, cái gì cũng không phân biệt, cái gì cũng bỏ hết, chư vị đồng
tham thiền. Chúng ta mang xác thân này một phen hơi thở ra không trở lại bèn
thành thây chết, chúng ta sở dĩ buông không hết, chỉ do xem thân này là trọng,
sanh nhân ngã phải quấy, thương ghét, thủ xả. Nếu nhận định thân này như thây
chết, không quý trọng nó, không chấp nó là ngã thì cái gì buông không hết? Chỉ
cần buông được hết, trong 24 giờ đi đứng nằm ngồi động tịnh rãnh rang, bận rộn,
toàn thân trong ngoài chỉ là một niệm nghi, bình thản không dứt niệm nghi,
không chen niệm nào khác. Một câu thoại đầu như ỷ thiên trường kiếm, ma đến ma chết, Phật đến
Phật chết, không sợ vọng tưởng thì có gì phá hại ta được? Có cái gì phân động
phân tịnh, cái gì chấp hữu chấp không? Như quá thật sợ vọng tưởng, ấy là chồng
thêm một lớp vọng tưởng. Biết mình thanh tịnh, thế là đã không thanh tịnh. Sợ
rơi vào không, chính đã rớt trong có. Tưởng thành Phật, đã vào đường ma. Nên
nói bửa củi gánh nước đâu không phải diệu đạo, cày ruộng cuốc đất đều là thiền
cơ, không phải trong khi ngồi kiết già mới
gọi là dụng công tu hành./.
Khi lúa chín, đầu bông lúa nặng trĩu nên cong oằn xuống, khi lúa
chưa chín thì đầu ngọn đứng thẳng. (kẻ hiểu đạo, tu hành thành thục, thì hạ thấp
mình xuống, còn kẻ mới tu đạo, thì lúc nào cũng tự cao, không biết uốn mình).
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét