Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2024

TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN

 

                                TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN

Hành trang cho một hành giả thực hành Bồ tát hạnh là: 4 hoằng thệ nguyện như sau:

Bốn hoằng thệ nguyện:  Căn cứ Bồ đề tâm mới có Bồ tát hạnh, không có Bồ đề tâm thì không có Bồ tát hạnh, Bồ đề tâm có khi gọi là Bồ đề nguyện, cả hai đều cùng một nghĩa, phát Bồ đề tâm, hay phát Bồ đề nguyện cũng đều là tâm thượng cầu, hạ hóa. Vậy hành tướng của Bồ đề tâm như thế nào?  Đó là bốn hoằng thệ nguyện:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành

   Bốn lời nguyện trên cũng bắt nguồn nơi giáo lý cơ bản của đức Phật mà khai triển ra. Đức Phật sau khi thành đạo, trước tiên chuyển pháp luân tại Lộc Uyển, Ngài dạy về pháp Tứ đế cho 5 anh em Kiều Trần Như. Gọi là Sơ chuyển pháp luân, đó là Khổ, Tập, Diệt và Đạo đế.

   Hành giả Thanh văn tu tập Tứ đế thì đạt được quả vị A La hán, dứt trừ ái thủ, ái thủ được dứt là Diệt đế, chứng Hữu dư y Niết bàn, Vô dư y Niết bàn. Các vị Bồ tát thì đi xa hơn một bước, cũng từ nơi Tứ đế, nhưng hiểu rõ mục đích siêu việt của Đức Phật trong lời dạy đó là phát bốn thệ nguyện rộng lớn:

          Duyên Khổ đế phát ra lời nguyện: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.

          Duyên Tập đế phát ra lời nguyện: Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.

          Duyên Diệt đế phát ra lời nguyện: Phật Đạo vô thượng thệ nguyện thành.

          Duyên Đạo đế phát ra lời nguyện: Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.

Bốn lời thệ nguyện này rất quan trọng, cần xét đến tác dụng và kết quả của nó để hiểu rõ và áp dụng trong bước đường tu tập.

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ:  Trong câu này có chữ “chúng sanh” cần cắt nghĩa. Trong kinh Kim Cang nêu ra các loài noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh, hữu tướng, vô tướng, phi hữu tướng, phi vô tướng, hữu sắc, vô sắc. Kinh Từ bi còn nêu chúng sanh hai chân, bốn chân, nhiều chân, đã sanh, sắp sanh, hay hiện có, hoặc lớn hoặc nhỏ. Chúng sanh giữa thế giới này vô cùng vô tận không sao kể xiết, nếu phân thành sáu nẻo thì gồm có chúng sanh cõi Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Nếu chia theo loại sanh thì gồm bốn loại: Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh. Vậy mà người tu hành phát nguyện độ tất cả là nhờ hiểu biết giáo lý và lòng từ bi của Phật, thấy chúng sanh tuy vô lượng nhưng đều là như huyễn, nên mới phát nguyện được như vậy.

  “Độ chúng sanh” là danh từ đặc biệt của Phật giáo. “Chúng sanh đa sanh tử” là loại hữu tình đang còn ở trong vòng luân hồi, nhiều lần sanh tử vì mắc nhiều nghiệp hữu lậu. Khi còn nghiệp hữu lậu thì phải thọ sanh thân hữu lậu trong tam giới và gọi là chúng sanh. Như vậy, còn một chút vô minh, một niệm tham ái, một chút hữu lậu thì còn là một chúng sanh. Chúng sanh có tướng chúng sanh và tánh chúng sanh. Tướng chúng sanh là chúng sanh mang thân hình tứ đại vô thường. Tánh chúng sanh là những tánh chấp ngã, chấp nhơn, phân biệt mình, người. Nếu còn mắc hình tướng chúng sanh, nhưng không còn tánh chúng sanh là vô minh, thì giờ phút đó không còn là chúng sanh nữa.

  Bản tánh không là chúng sanh, nhưng nếu còn móng niệm vọng tưởng là còn chúng sanh. Móng niệm tham thì thành chúng sanh của niệm tham, cho nên móng niệm sân, si, chấp ngã, thì thành chúng sanh của các niệm ấy. Nhưng nếu ngộ nhập lý Vô ngã, tức vô lậu, thì không còn luân hồi và bấy giờ không còn là chúng sanh nữa.

  Đức Phật mặc dầu Ngài hiện diện trên thế giới chúng ta, Ngài có sanh tử như chúng ta, nhưng không thể gọi Ngài là chúng sanh được, mà gọi Ngài là một vị Phật. Vì sao? vì Ngài đã hết vô minh, hết chấp ngã, cái tướng chúng sanh vẫn còn nhưng tính chúng sanh nơi Ngài không còn nữa. Khi nhìn một chúng sanh, ta thấy người ấy vừa là tính vừa là tướng, cho nên khi nào ta độ cho ta và cho người giải thoát khỏi sự ràng buộc của tham, sân, si thì đó là độ sanh.

 Như vậy việc độ sanh rất đa dạng và tế nhị, nếu có Bồ đề tâm thì lúc nào cũng có thể độ sanh được.

 Người Phật tử phải theo học hạnh từ bi của Phật, phát nguyện độ vô biên chúng sanh. Lời nguyện đó không phải là lời nguyện suông không thể thực hành được trong hàng ngày.

 Phật dạy có nhiều cách độ sanh: Không phá hoại sự sống của muôn loài, đó là độ sanh. Bảo vệ sự sống, phóng thích sự sống cho muôn loài, đó là độ sanh. Làm cho chúng sanh được giác ngộ giải thoát khỏi vô minh ái thủ, đó là cách độ sanh cao thượng nhất. Ta có thể thực hành hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự hoặc thực hành lục độ Ba la mật để độ sanh.

 Hiểu như vậy, mới thấy rõ lời của Phật dạy vô cùng thấm thía. Khi nào biết nghĩ tới tự độ và độ tha, khi đó là Bồ tát, là ý nghĩa câu chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.

 Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn: Kinh nói phiền não có 88 thứ hoặc vô lượng vô biên phiền não, nhưng tóm lại không ngoài vô minh, ái và thủ.

 Vô minh là sự chấp ngã, chấp mình có một cái ta riêng khác với mọi người, mọi vật. Nhưng ngã không phải là một cái độc lập riêng rẽ với cái khác mà chỉ là sự tương quan tương duyên với các khác mà có.

 Tôi hiện hữu nhờ có anh, anh hiện hữu nhờ có tôi. Tôi hiện hữu được nhờ những yếu tố khác như cha mẹ, cơm áo, ánh sáng, không khí, đất, nước, gió, lửa và nhiều sự vật chung quanh, chứ không phải tách ngoài các cái đó mà có sự hiện hữu của tôi. Người khác cũng thế, không phải tách ngoài mọi người, mọi vật mà có sự hiện hữu tồn tại ngoài các khác để bảo đó là ta. Ai còn thấy mình khác với người khác thì người đó còn vô minh, chính vì sự thấy ấy không đúng với thực tại. Như vậy, ta chỉ nói ngã trên những cái phi ngã, ngã chính là phi ngã, nên ngã chỉ là giả danh. Thực tại, là đạo lý duyên khởi mà nếu nghỉ khác đi thì đó là vô minh, vì vô minh mới sinh ra ái thủ. Chúng ta lấy ví dụ, có hai người cùng lúc đi ngang qua một cánh đồng, cả hai người cùng thấy hoa, một trong hai người thấy hoa, tự nhiên không để ý đến nó và cứ tiếp tục đi, còn người kia thấy hoa lại cho là đẹp mà không biết bản chất của hoa là không đẹp không xấu, bởi nó nở là nở tự nhiên. Nhưng anh ta vọng tưởng cho hoa là đẹp và ưa hoa đó, muốn hái hoa đó, muốn sở hữu hoa đó cho bằng được. Khi đã yêu thích nó thì ban ngày hái không được sẽ chờ hái ban đêm, đêm hái không được thì ăn cắp cho được. Như vậy anh ta vô minh cho nên mới có ái, có ái nên có thủ, dẫn đến hành động tạo nghiệp. Chúng sanh vì ái thủ mà tạo nghiệp nên có luân hồi.

 Đức Phật dạy chúng sanh muốn không bị luân hồi thì phải đoạn ái thủ. Ai ngộ được chân lý đó thì bớt đau khổ, ai không ngộ được thì  đau khổ lâu dài. Song muốn đoạn tận gốc ái thủ thì phải đoạn tận vô minh, muốn đoạn vô minh thì phải hiểu rõ thực tướng của vạn pháp là duyên sanh vô tướng, duyên sanh vô tác… Đạo lý thập nhị nhân duyên Đức Phật dạy rõ ràng như vậy. Muốn đoạn phiền não thì phải có một tâm tỉnh giác. Cho nên trong phép tu Thiền luôn luôn dùng hai chữ tỉnh giác. Tỉnh giác trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, khi ăn, khi mặc, khi thức, khi ngủ… cho đến khi không tham, không sân, không si, cũng biết mình không có ba thứ ấy xâm chiếm. Cách đối trị các phiền não thì nhiều nhưng cách tỉnh giác vẫn là phương pháp hữu hiệu nhất. Ví dụ như khi mình khởi tâm tham liền biết và dặn lòng đừng tham, ngay khi ấy lòng tham sẽ lắng xuống. Phép tỉnh giác trong  Thiền định giúp ta tỉnh tâm trong những công việc và cử động hằng ngày. Nếu luôn luôn tỉnh giác thì vô minh, ái thủ không làm sao xâm nhập được, tợ như cây bị đốn trụi cành lá, không phát triển được tất sẽ chết.

 Tóm lại phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, chủ yếu là đoạn vô minh, ái thủ, vì nó là một mắt xích rất kiên cố, đoạn nó thì phải dùng đến tâm tỉnh giác.

 Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Trong suốt 45 năm giảng dạy cho chúng sanh Đức Phật không đưa ra một pháp môn nào nhất định hết, nhưng chúng sanh thấy lời Ngài dạy thì thật vô lượng, nó như một phương thuốc trị bệnh. Chúng sanh bệnh khổ. Nguyên nhân khổ của chúng sanh là vô minh, ái và thủ gây ra. Ba thứ giặc phiền não này biến ra muôn hình vạn trạng, nên pháp môn cũng có nhiều cách để đối trị. Ví dụ, người có tâm tham dục nhiều thì Phật dạy tu phép quán từ bi, người có tâm trì độn nhiều Phật dạy tu phép quán giới phân biệt, quán nhân duyên. Tóm lại, pháp môn của Phật tùy theo căn bệnh của chúng sanh mà biến chế ra, chứ không có một phương thức gì nhất định. Trong kinh Phật có nêu 37 pháp trợ đạo, Tứ nhiếp pháp, Lục độ… cũng y như những phương thuốc trị bệnh cho chúng sanh mà thôi.

  Trong thời Đức Phật tại thế, có một lần, các Tỳ kheo trong khi đi hóa đạo, có dạy cho hai đệ tử cư sĩ thợ rèn và thợ giặt, tu hai pháp môn quán bất tịnh và quán sổ tức, cả hai tu đều không có kết quả. Họ đi đến hầu Phật và trình bày việc trên. Phật hỏi: “Ông ở nhà sống bằng nghề gì?”, Ông cư sĩ thợ rèn thưa: “Con sống về nghề thợ rèn”. Phật hỏi tiếp: “Các Tỳ kheo dạy ông tu pháp gì”, “Dạ ! dạy con tu pháp quán bất tịnh”. Phật cũng hỏi ông cư sĩ thợ giặt sống nghề gì, ông ta thưa “làm nghề thợ giặt”. Phật hỏi: “Các thầy Tỳ kheo dạy ông tu pháp gì?”. Ông đáp: “Dạ! Các Thầy dạy con tu pháp quán sổ tức”. Đức Phật dạy: Thôi được, bây giờ Ta chỉ thay đổi phương pháp tu một chút để cho hợp căn cơ của hai ông. Ngài liền dạy: “Ông thợ rèn tu pháp quán sổ tức, vì hằng ngày thợ rèn phải thụt ống lò hợp với hơi thở vô hơi thở ra của phép quán sổ tức. Còn ông thợ giặt thì nên tu phép quán bất tịnh, vì hàng ngày thợ giặt phải giặt đồ nhơ thì quán bất tịnh dễ thành”. Phật đổi cho họ phương pháp tu như vậy, họ tu một thời gian sau đó có kết quả. Như thế, pháp môn tu của Phật chỉ là phương thuốc để cứu chúng sanh thoát khổ theo đúng căn cơ. Do vậy, người học đạo phải tìm minh sư, nếu không gặp minh sư thì cố gắng lựa chọn cho được pháp môn thích hợp mà tu thì mới có kết quả.

  Tóm lại, dù Phật có vô lượng pháp môn nhưng không ngoài ba pháp môn căn bản nhất đó là Giới, Định, Tuệ.

  Giới là gì?  Là điều chế ngăn chận tai hại xảy ra. Có giới để giúp ta nhận thức rõ hành động của mình như thế nào là đúng, như thế nào là sai để ngăn chặn sự sai quấy của ba nghiệp, bởi vì tâm và ba nghiệp của ta như ngựa không cương, khi buông ra sẽ chạy rông khắp chốn, tức nhiên là tai họa. Giới cũng như dây cương, ngựa như người hành giả, ngựa có cương đó là ngựa tốt, có lợi ích, người tu hành, có giới cũng vậy, sẽ có lợi ích lớn.

  Định là gì? Là tập trung tư tưởng. Tư tưởng có ổn định thì việc làm mới có hiệu quả. Pháp môn Thiền định là pháp môn tu rất quý đã có từ xưa tại Ấn Độ, được Đức Phật sửa đổi bổ sung tạo thành pháp môn ưu việt, đưa thẳng đến giác ngộ cứu cánh, đồng thời cũng từng bước đem lại an lạc, hạnh phúc cho hành giả.

  Tuệ là gì? Là trí tuệ. Tuệ có ba thứ là Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ. Văn tuệ là nhờ chú tâm nghe đọc là hiểu rõ được ý nghĩa của câu văn, lời nói. Tư tuệ là nhờ suy nghỉ hiểu rõ câu văn, lời nói. Nhờ đó mà ta hiểu rõ vấn đề  trong thực tế. Tu huệ là thực hành ngay cả cái Tư tuệ, tức những gì mình đã suy nghỉ, đúng đắn, liền thực hành ngay theo sự suy nghỉ đó. Thí dụ như có một người quá nghèo, không bố thí được  nhiều nhưng với tâm từ bi, họ đem một hạt cơm để bố thí cho con kiến, cũng là một cách Tu tuệ.

  Tóm lại, pháp môn tu nào của Phật, nếu cố gắng  suy tư thật kỷ và sau đó áp dụng từng bước hay từng hoàn cảnh cụ thể, tự nhiên thấy khai tâm mở trí và ngay khi đó hưởng được sự an lạc.

 Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành:  Lời nguyện này có hai chừng mực áp dụng:  Thành Phật đạo một cách viên mãn như Đức Phật và thành đạo từng phần một như những người đang tu. Nếu mỗi ngày mình có độ sanh, có đoạn phiền não, có hành thiện pháp thì cũng là mỗi ngày mình có thành Phật đạo, chứ không hẳn phải chờ một ngày nào đó ngồi dưới cội Bồ đề mới gọi là thành Phật đạo. Đây là ý nghĩa câu “Chư Phật là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Vậy trong việc tu tập, giờ phút nào mình không còn tham ái, không còn sân si, không còn vô minh, thì giờ đó cũng thành Phật đạo, tức thành tựu lời dạy của Phật, thành tựu sự giải thoát giác ngộ từng phần.

 Tóm lại, bốn lời nguyện trên là hành tướng của Bồ đề tâm, ai thành tựu bốn lời nguyện đó là thành tựu Bồ đề tâm.

 Bốn lời nguyện này có thể nói là thâu tóm tất cả các nguyện lực khác. Phật tử tụng kinh hàng ngày với bao nhiêu lời nguyện cũng đều thực hiện Bồ đề tâm. Thí dụ như tụng:

  Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não

  Nguyện đắc trí tuệ chơn minh liễu

  Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ

  Thế thế thường hành Bồ tát đạo

   Hoặc:

  Nguyện đem công đức này

  Hướng về khắp tất cả

  Đệ tử và chúng sanh

  Đều trọn thành Phật đạo

 Đây là những thể hiện Bồ đề tâm qua bốn lời thệ nguyện./.

Trích  VHPG  1 -1 -2018 -số: 288 của  HT:  Thích Chơn Thiện

TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét