TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN
Hành trang cho một hành giả thực hành Bồ tát hạnh là: 4 hoằng thệ
nguyện như sau:
Bốn hoằng thệ nguyện: Căn cứ
Bồ đề tâm mới có Bồ tát hạnh, không có Bồ đề tâm thì không có Bồ tát hạnh, Bồ đề
tâm có khi gọi là Bồ đề nguyện, cả hai đều cùng một nghĩa, phát Bồ đề tâm, hay
phát Bồ đề nguyện cũng đều là tâm thượng cầu, hạ hóa. Vậy hành tướng của Bồ đề
tâm như thế nào? Đó là bốn hoằng thệ
nguyện:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
Bốn lời nguyện trên cũng
bắt nguồn nơi giáo lý cơ bản của đức Phật mà khai triển ra. Đức Phật sau khi
thành đạo, trước tiên chuyển pháp luân tại Lộc Uyển, Ngài dạy về pháp Tứ đế cho
5 anh em Kiều Trần Như. Gọi là Sơ chuyển pháp luân, đó là Khổ, Tập, Diệt và Đạo
đế.
Hành giả Thanh văn tu tập
Tứ đế thì đạt được quả vị A La hán, dứt trừ ái thủ, ái thủ được dứt là Diệt đế,
chứng Hữu dư y Niết bàn, Vô dư y Niết bàn. Các vị Bồ tát thì đi xa hơn một bước,
cũng từ nơi Tứ đế, nhưng hiểu rõ mục đích siêu việt của Đức Phật trong lời dạy
đó là phát bốn thệ nguyện rộng lớn:
Duyên
Khổ đế phát ra lời nguyện: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Duyên
Tập đế phát ra lời nguyện: Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Duyên
Diệt đế phát ra lời nguyện: Phật Đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Duyên
Đạo đế phát ra lời nguyện: Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Bốn lời thệ nguyện này rất quan trọng, cần xét đến tác dụng và kết
quả của nó để hiểu rõ và áp dụng trong bước đường tu tập.
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ:
Trong câu này có chữ “chúng sanh” cần cắt nghĩa. Trong kinh Kim Cang nêu
ra các loài noãn sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh, hữu tướng, vô tướng,
phi hữu tướng, phi vô tướng, hữu sắc, vô sắc. Kinh Từ bi còn nêu chúng sanh hai
chân, bốn chân, nhiều chân, đã sanh, sắp sanh, hay hiện có, hoặc lớn hoặc nhỏ.
Chúng sanh giữa thế giới này vô cùng vô tận không sao kể xiết, nếu phân thành
sáu nẻo thì gồm có chúng sanh cõi Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc
sanh. Nếu chia theo loại sanh thì gồm bốn loại: Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh
và hóa sanh. Vậy mà người tu hành phát nguyện độ tất cả là nhờ hiểu biết giáo
lý và lòng từ bi của Phật, thấy chúng sanh tuy vô lượng nhưng đều là như huyễn,
nên mới phát nguyện được như vậy.
“Độ chúng sanh” là danh từ
đặc biệt của Phật giáo. “Chúng sanh đa sanh tử” là loại hữu tình đang còn ở
trong vòng luân hồi, nhiều lần sanh tử vì mắc nhiều nghiệp hữu lậu. Khi còn
nghiệp hữu lậu thì phải thọ sanh thân hữu lậu trong tam giới và gọi là chúng
sanh. Như vậy, còn một chút vô minh, một niệm tham ái, một chút hữu lậu thì còn
là một chúng sanh. Chúng sanh có tướng chúng sanh và tánh chúng sanh. Tướng
chúng sanh là chúng sanh mang thân hình tứ đại vô thường. Tánh chúng sanh là những
tánh chấp ngã, chấp nhơn, phân biệt mình, người. Nếu còn mắc hình tướng chúng
sanh, nhưng không còn tánh chúng sanh là vô minh, thì giờ phút đó không còn là
chúng sanh nữa.
Bản tánh không là chúng
sanh, nhưng nếu còn móng niệm vọng tưởng là còn chúng sanh. Móng niệm tham thì
thành chúng sanh của niệm tham, cho nên móng niệm sân, si, chấp ngã, thì thành
chúng sanh của các niệm ấy. Nhưng nếu ngộ nhập lý Vô ngã, tức vô lậu, thì không
còn luân hồi và bấy giờ không còn là chúng sanh nữa.
Đức Phật mặc dầu Ngài hiện
diện trên thế giới chúng ta, Ngài có sanh tử như chúng ta, nhưng không thể gọi
Ngài là chúng sanh được, mà gọi Ngài là một vị Phật. Vì sao? vì Ngài đã hết vô
minh, hết chấp ngã, cái tướng chúng sanh vẫn còn nhưng tính chúng sanh nơi Ngài
không còn nữa. Khi nhìn một chúng sanh, ta thấy người ấy vừa là tính vừa là tướng,
cho nên khi nào ta độ cho ta và cho người giải thoát khỏi sự ràng buộc của
tham, sân, si thì đó là độ sanh.
Như vậy việc độ sanh rất đa
dạng và tế nhị, nếu có Bồ đề tâm thì lúc nào cũng có thể độ sanh được.
Người Phật tử phải theo học
hạnh từ bi của Phật, phát nguyện độ vô biên chúng sanh. Lời nguyện đó không phải
là lời nguyện suông không thể thực hành được trong hàng ngày.
Phật dạy có nhiều cách độ
sanh: Không phá hoại sự sống của muôn loài, đó là độ sanh. Bảo vệ sự sống,
phóng thích sự sống cho muôn loài, đó là độ sanh. Làm cho chúng sanh được giác
ngộ giải thoát khỏi vô minh ái thủ, đó là cách độ sanh cao thượng nhất. Ta có
thể thực hành hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự hoặc thực hành lục độ Ba
la mật để độ sanh.
Hiểu như vậy, mới thấy rõ lời
của Phật dạy vô cùng thấm thía. Khi nào biết nghĩ tới tự độ và độ tha, khi đó
là Bồ tát, là ý nghĩa câu chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện
đoạn: Kinh nói phiền não có 88 thứ hoặc vô lượng vô biên phiền não, nhưng tóm lại
không ngoài vô minh, ái và thủ.
Vô minh là sự chấp ngã, chấp
mình có một cái ta riêng khác với mọi người, mọi vật. Nhưng ngã không phải là một
cái độc lập riêng rẽ với cái khác mà chỉ là sự tương quan tương duyên với các
khác mà có.
Tôi hiện hữu nhờ có anh,
anh hiện hữu nhờ có tôi. Tôi hiện hữu được nhờ những yếu tố khác như cha mẹ,
cơm áo, ánh sáng, không khí, đất, nước, gió, lửa và nhiều sự vật chung quanh,
chứ không phải tách ngoài các cái đó mà có sự hiện hữu của tôi. Người khác cũng
thế, không phải tách ngoài mọi người, mọi vật mà có sự hiện hữu tồn tại ngoài
các khác để bảo đó là ta. Ai còn thấy mình khác với người khác thì người đó còn
vô minh, chính vì sự thấy ấy không đúng với thực tại. Như vậy, ta chỉ nói ngã
trên những cái phi ngã, ngã chính là phi ngã, nên ngã chỉ là giả danh. Thực tại,
là đạo lý duyên khởi mà nếu nghỉ khác đi thì đó là vô minh, vì vô minh mới sinh
ra ái thủ. Chúng ta lấy ví dụ, có hai người cùng lúc đi ngang qua một cánh đồng,
cả hai người cùng thấy hoa, một trong hai người thấy hoa, tự nhiên không để ý đến
nó và cứ tiếp tục đi, còn người kia thấy hoa lại cho là đẹp mà không biết bản
chất của hoa là không đẹp không xấu, bởi nó nở là nở tự nhiên. Nhưng anh ta vọng
tưởng cho hoa là đẹp và ưa hoa đó, muốn hái hoa đó, muốn sở hữu hoa đó cho bằng
được. Khi đã yêu thích nó thì ban ngày hái không được sẽ chờ hái ban đêm, đêm
hái không được thì ăn cắp cho được. Như vậy anh ta vô minh cho nên mới có ái,
có ái nên có thủ, dẫn đến hành động tạo nghiệp. Chúng sanh vì ái thủ mà tạo
nghiệp nên có luân hồi.
Đức Phật dạy chúng sanh muốn
không bị luân hồi thì phải đoạn ái thủ. Ai ngộ được chân lý đó thì bớt đau khổ,
ai không ngộ được thì đau khổ lâu dài.
Song muốn đoạn tận gốc ái thủ thì phải đoạn tận vô minh, muốn đoạn vô minh thì
phải hiểu rõ thực tướng của vạn pháp là duyên sanh vô tướng, duyên sanh vô tác…
Đạo lý thập nhị nhân duyên Đức Phật dạy rõ ràng như vậy. Muốn đoạn phiền não
thì phải có một tâm tỉnh giác. Cho nên trong phép tu Thiền luôn luôn dùng hai
chữ tỉnh giác. Tỉnh giác trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, khi ăn, khi mặc, khi thức,
khi ngủ… cho đến khi không tham, không sân, không si, cũng biết mình không có
ba thứ ấy xâm chiếm. Cách đối trị các phiền não thì nhiều nhưng cách tỉnh giác
vẫn là phương pháp hữu hiệu nhất. Ví dụ như khi mình khởi tâm tham liền biết và
dặn lòng đừng tham, ngay khi ấy lòng tham sẽ lắng xuống. Phép tỉnh giác
trong Thiền định giúp ta tỉnh tâm trong
những công việc và cử động hằng ngày. Nếu luôn luôn tỉnh giác thì vô minh, ái
thủ không làm sao xâm nhập được, tợ như cây bị đốn trụi cành lá, không phát triển
được tất sẽ chết.
Tóm lại phiền não vô tận thệ
nguyện đoạn, chủ yếu là đoạn vô minh, ái thủ, vì nó là một mắt xích rất kiên cố,
đoạn nó thì phải dùng đến tâm tỉnh giác.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện
học. Trong suốt 45 năm giảng dạy cho chúng sanh Đức Phật không đưa ra một pháp
môn nào nhất định hết, nhưng chúng sanh thấy lời Ngài dạy thì thật vô lượng, nó
như một phương thuốc trị bệnh. Chúng sanh bệnh khổ. Nguyên nhân khổ của chúng
sanh là vô minh, ái và thủ gây ra. Ba thứ giặc phiền não này biến ra muôn hình
vạn trạng, nên pháp môn cũng có nhiều cách để đối trị. Ví dụ, người có tâm tham
dục nhiều thì Phật dạy tu phép quán từ bi, người có tâm trì độn nhiều Phật dạy
tu phép quán giới phân biệt, quán nhân duyên. Tóm lại, pháp môn của Phật tùy
theo căn bệnh của chúng sanh mà biến chế ra, chứ không có một phương thức gì nhất
định. Trong kinh Phật có nêu 37 pháp trợ đạo, Tứ nhiếp pháp, Lục độ… cũng y như
những phương thuốc trị bệnh cho chúng sanh mà thôi.
Trong thời Đức Phật tại thế,
có một lần, các Tỳ kheo trong khi đi hóa đạo, có dạy cho hai đệ tử cư sĩ thợ
rèn và thợ giặt, tu hai pháp môn quán bất tịnh và quán sổ tức, cả hai tu đều
không có kết quả. Họ đi đến hầu Phật và trình bày việc trên. Phật hỏi: “Ông ở
nhà sống bằng nghề gì?”, Ông cư sĩ thợ rèn thưa: “Con sống về nghề thợ rèn”. Phật
hỏi tiếp: “Các Tỳ kheo dạy ông tu pháp gì”, “Dạ ! dạy con tu pháp quán bất tịnh”.
Phật cũng hỏi ông cư sĩ thợ giặt sống nghề gì, ông ta thưa “làm nghề thợ giặt”.
Phật hỏi: “Các thầy Tỳ kheo dạy ông tu pháp gì?”. Ông đáp: “Dạ! Các Thầy dạy
con tu pháp quán sổ tức”. Đức Phật dạy: Thôi được, bây giờ Ta chỉ thay đổi
phương pháp tu một chút để cho hợp căn cơ của hai ông. Ngài liền dạy: “Ông thợ
rèn tu pháp quán sổ tức, vì hằng ngày thợ rèn phải thụt ống lò hợp với hơi thở
vô hơi thở ra của phép quán sổ tức. Còn ông thợ giặt thì nên tu phép quán bất tịnh,
vì hàng ngày thợ giặt phải giặt đồ nhơ thì quán bất tịnh dễ thành”. Phật đổi
cho họ phương pháp tu như vậy, họ tu một thời gian sau đó có kết quả. Như thế,
pháp môn tu của Phật chỉ là phương thuốc để cứu chúng sanh thoát khổ theo đúng
căn cơ. Do vậy, người học đạo phải tìm minh sư, nếu không gặp minh sư thì cố gắng
lựa chọn cho được pháp môn thích hợp mà tu thì mới có kết quả.
Tóm lại, dù Phật có vô lượng
pháp môn nhưng không ngoài ba pháp môn căn bản nhất đó là Giới, Định, Tuệ.
Giới là gì? Là điều chế ngăn chận tai hại xảy ra. Có giới
để giúp ta nhận thức rõ hành động của mình như thế nào là đúng, như thế nào là
sai để ngăn chặn sự sai quấy của ba nghiệp, bởi vì tâm và ba nghiệp của ta như
ngựa không cương, khi buông ra sẽ chạy rông khắp chốn, tức nhiên là tai họa. Giới
cũng như dây cương, ngựa như người hành giả, ngựa có cương đó là ngựa tốt, có lợi
ích, người tu hành, có giới cũng vậy, sẽ có lợi ích lớn.
Định là gì? Là tập trung
tư tưởng. Tư tưởng có ổn định thì việc làm mới có hiệu quả. Pháp môn Thiền định
là pháp môn tu rất quý đã có từ xưa tại Ấn Độ, được Đức Phật sửa đổi bổ sung tạo
thành pháp môn ưu việt, đưa thẳng đến giác ngộ cứu cánh, đồng thời cũng từng bước
đem lại an lạc, hạnh phúc cho hành giả.
Tuệ là gì? Là trí tuệ. Tuệ
có ba thứ là Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ. Văn tuệ là nhờ chú tâm nghe đọc là hiểu
rõ được ý nghĩa của câu văn, lời nói. Tư tuệ là nhờ suy nghỉ hiểu rõ câu văn, lời
nói. Nhờ đó mà ta hiểu rõ vấn đề trong
thực tế. Tu huệ là thực hành ngay cả cái Tư tuệ, tức những gì mình đã suy nghỉ,
đúng đắn, liền thực hành ngay theo sự suy nghỉ đó. Thí dụ như có một người quá
nghèo, không bố thí được nhiều nhưng với
tâm từ bi, họ đem một hạt cơm để bố thí cho con kiến, cũng là một cách Tu tuệ.
Tóm lại, pháp môn tu nào của
Phật, nếu cố gắng suy tư thật kỷ và sau
đó áp dụng từng bước hay từng hoàn cảnh cụ thể, tự nhiên thấy khai tâm mở trí
và ngay khi đó hưởng được sự an lạc.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện
thành: Lời nguyện này có hai chừng mực
áp dụng: Thành Phật đạo một cách viên
mãn như Đức Phật và thành đạo từng phần một như những người đang tu. Nếu mỗi
ngày mình có độ sanh, có đoạn phiền não, có hành thiện pháp thì cũng là mỗi
ngày mình có thành Phật đạo, chứ không hẳn phải chờ một ngày nào đó ngồi dưới cội
Bồ đề mới gọi là thành Phật đạo. Đây là ý nghĩa câu “Chư Phật là Phật đã thành,
chúng sanh là Phật sẽ thành”. Vậy trong việc tu tập, giờ phút nào mình không
còn tham ái, không còn sân si, không còn vô minh, thì giờ đó cũng thành Phật đạo,
tức thành tựu lời dạy của Phật, thành tựu sự giải thoát giác ngộ từng phần.
Tóm lại, bốn lời nguyện
trên là hành tướng của Bồ đề tâm, ai thành tựu bốn lời nguyện đó là thành tựu Bồ
đề tâm.
Bốn lời nguyện này có thể
nói là thâu tóm tất cả các nguyện lực khác. Phật tử tụng kinh hàng ngày với bao
nhiêu lời nguyện cũng đều thực hiện Bồ đề tâm. Thí dụ như tụng:
Nguyện tiêu tam chướng trừ
phiền não
Nguyện đắc trí tuệ chơn
minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất
tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát
đạo
Hoặc:
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo
Đây là những thể hiện Bồ đề
tâm qua bốn lời thệ nguyện./.
Trích VHPG 1
-1 -2018 -số: 288 của HT: Thích Chơn Thiện
0 nhận xét:
Đăng nhận xét