NHỮNG THUẬN TIỆN VÀ SỰ VƯỚNG MẮC
CỦA VIỆC HỘ NIỆM
Pháp môn niệm Phật và cầu vãng
sanh đã có từ lâu và xưa nay sự vãng sanh có rất nhiều. Nhưng sự hộ niệm thì
mới được khơi dậy trong vòng 10 năm trở lại đây, ảnh hưởng từ phía Tịnh tông
của Hoà Thượng Tịnh Không ở Đài Loan. Việt Nam là cơ hội và môi trường tốt nhất
để cho sự phát triển mạnh mẻ pháp môn niệm Phật và hộ niệm cho người lâm chung
vãng sanh ngày càng tăng và được nhiều người biết đến. Hiện nay theo sự thống
kê ban đầu trên toàn nước VN có 47 ban hộ niệm trên 64 tỉnh thành được thành
lập và ngày đêm luôn thực hiện rất tốt. Các ban hộ niệm được giáo hội đồng tình
và mọi người tuỳ hỷ. Được sự ủng hộ trong nước và nước ngoài, pháp môn niệm
Phật và Ban hộ niệm được nhiều người biết đến nhờ vào sự phát hành kinh sách,
tượng, băng đĩa giảng về pháp môn tịnh độ. Nhờ vào các băng đĩa các ca vãng
sanh có thoại tướng tự tại ra đi , khống
chế được những cơn đau nghẹt nghèo v.v đã tạo cho mọi người niềm tin sâu sắc
vào pháp môn tịnh độ, phát nguyện niệm Phật cầu vãng sanh chấm dứt sanh tử khổ
đau một kiếp người quả là quan trọng.
Pháp môn niệm Phật ngoài việc
cầu vãng sanh lúc lâm chung, mà còn giúp cho những người còn đang sống hoá giải
được bệnh tật, nghiệp báo, những nổi khổ đau từ thể xác đến tâm hồn đều được
câu Phật hiệu hoá giải một cách yên ổn, không phải tốn thời gian và tiền bạc.
Có thể nói ở đâu có người niệm Phật ở đó có người cảm nhận được sự mầu nhiệm
của pháp môn. Một pháp môn đơn giản không cần phải có thầy hay bạn tốt hướng
dẫn mà tự mình vẫn thực hiện được thành công. Không cần phải trải qua khoá đào
tạo nào, chỉ một lần được nghe được biết là có thể hành trì suốt đời . Đơn cử
và minh chứng 28 trường hợp trong chương trình Phật pháp nhiệm mầu của chùa
Hoằng Pháp đưa ra. Tất cả được hoá giải từ câu Phật hiệu A Di Đà, trong 28
trường hợp được nêu ra, mỗi một trường hợp đều khác nhau, từ việc cướp bóc, lừa
gạt, sát sanh, rượu chè cờ bạc, bất hiếu , xì ke ma tuý v.v. đều được hoá giải
chỉ có một câu Phật hiệu trong thời gian ngắn thì tiêu nghiệp. Câu Phật hiệu đã
chuyển từ tâm điên đảo loạn động trở về với tâm thanh tịnh sẳn có của mỗi
người. Khi đã trở về với tâm thanh tịnh thì mọi phiền não cấu uế được giải toả
là điều có thể hiểu có thể tin. Giống như qua cơn mưa thì trời sẽ tạnh, khi nào
không còn gió bảo mây che thì bầu trời thanh tịnh sẽ hiển lộ ra. Tâm ta cũng
vậy, đã sẳn có sự thanh tịnh sự an lạc chúng ta vì mê mờ đã quên mất cái sẳn có
của mìmh, mà chạy đi tìm cái bên ngoài rồi phải khổ luỵ. Nay được có người nhắc
nhở ta quay về với tự tâm thì an lạc đã sẳn có, không cần phải lâu xa. Trong
kinh nói: “chỉ trong khảy móng tay, là thấy ngay cảnh Tây phương Cực Lạc” là
vậy. Nếu chúng ta chịu dừng tâm định tánh thì sự an lạc, sự mầu nhiệm sẽ đến
với ta trong chốc lác.
Thật sự mà nói, câu Phật hiệu đã cứu
nhiều người từ khổ đau qua an lạc, từ cõi mê muội trở lại sống đời quang minh
chánh đại, từ cõi chết về với sự sống, từ kẻ hung bạo vô nhân thành người hiền
lương đạo đức. Câu Phật hiệu đã và đang giúp cho xã hội con người bớt đi những
tệ nạn, bớt những khổ luỵ mà con người đang bế tắt trong cuộc sống. Và còn mở
ra khung trời đầy hứa hẹn trong mai sau là vãng sanh thế giới an lành nhất,
tuyệt vời nhất.
Do những lợi thế đó, pháp môn niệm Phật càng ngày càng lang rộng, được
nhiều người biết đến, nhiều người quan tâm tham dự tu học và gia nhập vào các
ban hộ niệm.
Bên cạnh sự thuận tiện lại có
những sự khó khăn:
a/ Phật dạy có nhiều pháp môn
tu, nhưng mỗi người tuỳ căn cơ và phước duyên tin hiểu một pháp môn khác nhau.
Cho nên có một số người tu pháp khác không đồng tình với pháp môn này, nó cũng
là một sự trở ngại.
b/ Sự hiểu biết sâu xa về mục
đích của pháp môn chưa được hoàn chỉnh, nên có những sự ứng dụng trong pháp môn
không đồng, gây sự trở ngại cho các hành giả mới tập tu.
c/ Trong nhân gian còn nhiều
tập tục, như coi ngày giờ tốt xấu để nhập liệm đưa tang, làm trở ngại cho sự
trợ niệm, không tuân thủ quy tắc hộ niệm, dẫn đến trở ngại việc vãng sanh cho
người lâm chung.
d/ Đa số người không có đạo cũng
như phật tử chưa hiểu rỏ quy tắc hộ niệm là giúp cho người bệnh lúc còn sống có
đủ tín, hạnh, nguyện để vãng sanh. Đây là ba yếu tố để vãng sanh chứ không phải
chờ đến lúc hấp hối.
g/ Những ban nghi lễ tụng niệm
hình thành ban hộ niệm. Những vị trong ban nghi lễ trước thường tụng kinh cầu
an cầu siêu chưa hiểu sự hộ niệm, nên khi có người hấp hối họ chỉ chuyên tụng
kinh bái sám, chứ không chuyên niệm Phật. Chủ yếu là tụng kinh sau khi bịnh
nhân chết 2,3 giờ sau, hoặc trong những tuần thất là chính. Đây gọi là ban nghi
lễ cầu siêu cầu an chứ chưa phải ban hộ niệm đúng pháp giúp cho người lâm chung
vãng sanh về Cực Lạc./.
Thánh hiệu Phật A Di Đà
Ai biết xưng niệm nghiệp liền
tiêu
Lâm chung mười niệm rõ ràng
Phật liền tiếp dẫn vãng sanh
liên đài.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét