Ý NGHĨA XUẤT
GIA
1-Tại sao gọi là xuất gia? Xuất
gia tiếng Phạn gọi là Pravrajya. Xuất gia là chỉ cho những người theo Phật
giáo, từ bỏ gia đình sống đời phạm hạnh, không màng danh lợi hay dục lạc, chỉ
mong cầu giải thoát, họ ở trong rừng hay ở những nơi thanh tịnh, xa rời đời
sống thế tục. Ở Ấn Độ thời cổ đại cũng có những đạo sĩ Bà La Môn tu theo hạnh
xuất gia, tuy có hình thức tương tự, nhưng chính đức Thích Ca Mâu Ni đã mang
lại cho đời sống xuất gia theo đạo Phật một ý nghĩa đầy đủ và thực tiển hơn.
Kinh
Tăng Nhất A Hàm nói: “Người xuất gia nên giữ bốn lời hoằng nguyện, là người
xuất gia học đạo thì phải giữ niềm tin kiên cố, nếu không đủ ý nghĩa như tên
gọi này chớ xưng là đệ tử của Đức Thích Ca”.
Đệ tử xuất gia phải phát bốn
hoằng thệ nguyện:
1
- Nguyện cứu các khổ chúng sanh,
2
- Nguyện trừ các chướng hoặc chúng sanh,
3
- Nguyện đoạn trừ các tà kiến của chúng sanh,
4
- Nguyện độ chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử.
Như thế xuất gia theo
nghĩa đạo Phật không chỉ để giải thoát cho chính mình mà còn vì lợi ích cho mọi
loài chúng sanh. Đã làm người xuất gia thì phải luôn luôn tự kiểm điểm
mình bằng bốn lời hoằng nguyện trên.
Dựa
vào hạnh nguyện của hành giả, cổ đức chia xuất gia có ba hạng:
a/ Thân và
tâm đều xuất gia: Xuất gia là mỗi cá nhân tự nguyện, không ai và cũng
không quyền lực nào có thể buộc một người phải xuất gia. Khi người xuất gia đã
rời nhà vào ở trong chùa thì gọi là thân xuất gia, khi người đó tâm không còn
hướng ra bên ngoài tham muốn các dục lạc, thú vui của năm dục, không còn màng
đến danh lợi được mất, thì đó là tâm xuất. Thân và tâm của một người xuất gia
đã đồng nhất, an bần lạc đạo, nên gọi là thân và tâm đều xuất gia. Đây chính là
trường hợp lý tưởng nhất đối với một hành giả và cũng là bổn phận của người
xuất gia.
b/ Thân
xuất gia mà tâm không xuất gia: Đây là trường hợp của những người gởi
thân trong chùa nhưng tâm của họ vẫn còn vọng tưởng, chạy đuổi theo cái vui của
năm dục. Người như vậy chỉ xuất gia vì cuộc sống hưởng lạc, vì tiếng thơm để
người khác ngưỡng mộ. Đức Phật đã cho biết, vào thời mạt pháp thường thấy nhiều
hạng người xuất gia như vậy.
c/ Tâm xuất gia mà thân không xuất gia:
Đây là hình thức xuất gia của các vị thánh hay các vị Bồ Tát. Những vị này hoặc
vì sợ lộ hình tướng khiến chúng sanh ngưỡng mộ mà trở nên mê tín, hoặc vì họ
không còn chấp vào hình tướng, mà chỉ chú trọng vào việc tu hành thực tiển.
Thân của họ không cần ở chùa, nhưng tâm họ không còn ham thích các thú vui của
năm dục và cũng không màng danh lợi. Hình thức này rất đặc biệt, người phàm phu
không thể thực hành được, vì vậy không thể làm mô phạm cho người xuất gia thông
thường.
Ở
đây chỉ đề cập đến hình thức xuất gia lý tưởng nhất, đó là hình thức xuất gia
thứ nhất, thân và tâm đều xuất gia.
2 - Xuất gia là trực tiếp đối mặt với sanh tử luân
hồi:
Cái
mà chúng ta gọi là “nhà” thì các bậc thánh gọi là lao ngục, là ràng buộc. Kinh
Niết bàn dạy: “Sống trong nhà thì bị bức bách ràng buộc như lao tù, nó là nhân
phát sinh ra các loại phiền não. Người ra khỏi nhà thì thoải mái như hư không,
nó là nhân làm tăng trưởng tất cả thiện pháp”. Sự thể hiện rất rõ của việc xuất
gia là việc từ bỏ đời sống trong ngôi nhà thế tục và sống đời sống không nhà,
cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca sa, dùng tâm thành kính, thọ trì giới luật Phật đã
chế. Nhưng đây chỉ mới là nghĩa đen, còn nghĩa bóng của nó là nhờ vào việc
thành kính thọ trì giới luật của Phật mà có thể ra khỏi phiền não, ra khỏi nhà
năm uẩn, ra khỏi nhà ba cõi, được giải thoát sanh tử luân hồi, chứng đắc giác
ngộ, như thế mới gọi là xuất gia đúng nghĩa.
Kinh
Hoa Nghiêm dạy: “Người đời thường không hiểu biết gì về pháp của người xuất
gia, chỉ ham thích cái vui rồi rơi vào sanh tử mà không biết cầu mong thoát
khỏi. Còn Bồ Tát thì xả bỏ hết thảy thành quách tài sản, làm người xuất gia cầu
mong giác ngộ. Như vậy, xuất gia không phải việc làm tiêu cực, mà ngược lại,
chính là việc trực tiếp đối mặt với sanh tử luân hồi, tìm ra con đường giải
thoát, gánh vác sứ mệnh cao cả tự độ độ tha, lợi lạc hữu tình, không bao giờ mỏi
mệt.
3
- Xuất gia là tích cực đối diện với cuộc đời:
Xuất gia là ra khỏi sự ràng
buộc của đời sống gia đình. Khi xưa Đức Thích Ca còn là thái tử, đã thấy được
cái khổ sanh già bệnh chết của cuộc đời, thế rồi Ngài quyết tâm từ giả cung
vàng điện ngọc vợ đẹp con thơ… để xuất gia tìm cầu chân lý. Trải qua sáu năm
khổ hạnh tìm cầu chân lý, và cuối cùng Ngài tự mình xác định lại con đường của
mình và chứng đắc giác ngộ vô thượng Bồ đề. Như vậy xuất gia không phải là một
việc dễ làm, lại càng không đơn giản để cả thân và tâm đều cảm nhận được pháp
lạc, cho nên xuất gia là việc khó, phải trải qua nhiều công đoạn tu tập thực
hành mới thành tựu được, là việc làm của bậc xuất trần thượng sĩ, không phải
người có quyền uy hoặc giàu có mà làm được. Xuất gia là ra khỏi ngôi nhà đang
bốc cháy của ba cõi, là ra khỏi ngôi nhà luân hồi sanh tử, muốn làm được điều
này người xuất gia cần phải chuẩn bị cho mình một chí nguyện vững chải, một tấm
lòng thành kính để trau dồi phước huệ, nâng cao tính thiện trong con người,
tinh tấn thực hành từ bi hỷ xả để bước vào cảnh giới giác ngộ viên mãn.
Xuất
gia phải tự mình tháo gỡ ràng buộc, dần dần thoát ly biển khổ, xả bỏ danh lợi
cám dỗ, chỉ một lòng tầm cầu chân lý giải thoát tối thượng. Xuất gia là việc
làm siêu trần thoát tục, luôn luôn phải thức tỉnh nội tâm, tham học cầu
tiến, giải trừ cho được cái khổ sanh già bệnh chết, tiêu trừ cho được mê hoặc,
thăng cao quả vị chứng đắc. Làm được như thế thì việc xuất gia mới tích cực đối
diện với cuộc đời. Người xuất gia phải luôn luôn tâm niệm rằng, xuất gia là để
vượt ra khỏi ngôi nhà phiền não sanh tử, ra khỏi ngôi nhà tà tri tà kiến, ra
khỏi ngôi nhà tự tư tự lợi, để rồi hoàn thiện nhân cách, liễu ngộ cuộc đời tạm
bợ vô thường, lợi lạc quần sanh. Người xuất gia mỗi khi xuống tóc (thế phát)
đọc bài kệ rằng: “Cạo bỏ râu tóc, nên nguyện chúng sanh, xa rời phiền não, rốt
ráo thanh tịnh”. Tỳ Ni Nhựt Dụng nói về năm đức tính của một người xuất gia là:
Một là phát tâm xuất gia, vì cảm bội Phật pháp. Hai là huỷ bỏ hình đẹp, vì
thích ứng pháp y. Ba là cát ái từ thân, vì không còn thân sơ. Bốn là không kể
thân mạng, vì tôn sùng Phật pháp. Năm là chí cầu đại thừa, vì hoá độ chúng sanh.
Nhiều
người quan niệm sai lầm cho rằng chùa chiền là nơi trốn tránh trách nhiệm xã
hội hoặc vào chùa thì liền được thanh tịnh giải thoát. Nghỉ như vậy thì quá ư
nông cạn. Vào chùa ngoài công việc bửa củi gánh nước, tụng kinh niệm phật hằng
ngày, người xuất gia còn phải biết tự câu thúc từng hành vi cử chỉ, từng lời ăn
tiếng nói, từng niệm khởi trong tâm, nhất nhất đều phải chấp trì nghiêm ngặt
các nguyên tắc của thiền môn. Nếu người không đủ phước báo, thiếu quyết tâm hạ
thủ công phu, hoặc không đủ thời gian tu tập và rèn luyện ngay từ đầu thì sẽ dễ
dàng thất bại. Khí đó còn nói chi đến chuyện ngồi thiền, tỉnh toạ, kinh hành,
nghiên cứu giáo nghĩa, thông thạo kinh điển, thuyết giảng độ sanh. Hoặc có
người cho rằng vào chùa là trốn tránh được sự đời, có ngờ đâu trong tâm còn
phiền não thì dù ở chùa phiền não lại càng tăng thêm. Có lời cảnh báo cho thấy
rằng: “Khi chưa khoác áo ca sa thì thấy cuộc đời này nhiều chuyện, nhưng khi đã
khoác áo ca sa rồi thì chuyện càng nhiều hơn”. Thật ra đây là một bài học
hai mặt, khi tâm tịnh thì thế giới tịnh, và khi tâm an thì thế giới an. Khi cái
thấy biết của mình đã không đúng thì làm sao mà tịnh, đức hạnh tu tập chưa
thuần thì thân làm sao mà an. Nếu không hiểu giáo lý thì dù có xuất gia đi
chăng nữa tâm cũng không thể nào thanh tịnh, đó chỉ mới là hình thức thân xuất
gia mà tâm không xuất gia. Mặt khác xuất gia là một chí nguyện, như người lập
chí cho sự nghiệp của mình mà ra sức tập trung học hỏi trau dồi. Việc xuất gia
mang ý nghĩa tiếp tục gánh vác trọng trách của đức Phật, nối tiếp dòng thánh,
duy trì huệ mạng. Muốn được như vậy thì xuất gia phải phát tâm dũng mãnh, trên
cầu Phật đạo dưới cứu chúng sanh, giúp chúng sanh rời khổ được vui, chứng ngộ
chân lý, giải thoát sanh tử luân hồi.
4. Xuất
gia là đại báo hiếu: Nếu bảo rằng chữ hiếu của đời thường là hiếu
thuận cha mẹ, phụng dưỡng thì đạo hiếu của người xuất gia còn cao hơn nữa, vì
xuất là là một nghĩa cử cao đẹp hơn cả, chứ không như mọi người vẫn tưởng rằng
xuất gia là đoạn tuyệt thân bằng quyến thuộc. Đức Phật dạy người xuất gia đoạn
trừ có nghĩa là đoạn trừ chấp trước hoặc chấp thủ, nghĩa là không khởi vọng
niệm về chấp thủ tình cảm, chứ không phải là đoạn trừ thâm ân cha mẹ, thay vào
đó người xuất gia đem cái tình cảm bình thường thăng hoa thành đại từ bi tâm.
Nếu đoạn trừ theo cách nghĩ thông thường thì thành ra pháp tiêu diệt, mà pháp
tiêu diệt thì tu hành không có ích gì, như cây khô không còn có ý nghĩa.
Đức
Phật dạy chúng ta phải tôn trọng hết thảy chúng sanh, cảm ơn hết thảy chúng
sanh, lấy sự tu tập giải thoát mà báo đáp thâm ân của cha mẹ. Đức Phật sau khi
thành Phật, Ngài trở về hoàng cung báo hiếu cho cha và bà mẹ kế. Vua cha
lâm bệnh thì Ngài nói pháp cho vua nghe. Lúc vua lâm chung thì Ngài tự vai mình
gánh thi hài vua cha đi mai táng. Người xuất gia báo đáp thâm ân cha mẹ bằng
cách hướng dẫn cha mẹ tin ba ngôi Tam bảo, thực hành chánh nghiệp, làm lành
lánh dữ, tạo phước đức. Chỉ có người không hiểu đạo lý mới cho Phật giáo không
tôn trọng đạo hiếu. Trong Phật giáo nhấn mạnh “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu
là hạnh Phật ”. Người xuất gia luôn lấy từ bi làm bản hoài, phát Bồ Đề tâm,
hành Bồ Tát hạnh. lợi mình lợi người, cứu độ chúng sanh, trên đền bốn ơn nặng
dưới cứu khổ muôn loài, thương yêu tất cả côn trùng nhỏ bé. Người xuất gia dùng
năng lực tu hành của mình để báo hiếu, nếu cha mẹ có khó khăn, giới luật của
Phật cũng cho phép cúng dường cha mẹ, và cũng có thể đem cha mẹ về chùa để
phụng dưỡng. Chúng ta nhiều kiếp luân hồi trong lục đạo thì cũng có rất nhiều
cha mẹ, nếu kiếp này may mắn được xuất gia thì phải tinh tấn tu hành, hoá độ
chúng sanh hữu duyên, trợ duyên hồi hướng cha mẹ nhiều đời.
Xuất
gia phải biết cầu tiến, vượt ra ngoài ba cõi, dùng trí tuệ liễu ngộ của mình mà
phục vụ chúng sanh, làm cho chúng sanh được lợi ích thiết thực, từ vô minh mà
đi vào giác ngộ. Dùng Phật pháp để hướng dẫn chúng sanh, lấy lục độ để giáo hoá
muôn loài, do đó người xuất gia trước hết phải vì lợi ích cho chúng sanh, thành
tựu Phật đạo, chỉ như thế mới là một người xuất gia chân chánh, không trốn
tránh cuộc đời, không rời thế gian.
5. Ý
nghĩa thực tiển của người xuất gia.
Người
xuất gia nhờ giữ gìn giới luật mà sinh được định, do định mà phát sanh trí tuệ,
cuối cùng chứng đắc giải thoát giác ngộ. Nếu chúng ta dùng lòng tin chân chánh
để áp dụng lời Phật dạy vào cuộc đời, đem lợi lạc cho cuộc đời thì chúng ta sẽ
hoà hợp giữa mọi người, thế giới Ta bà được an lạc thì đó là Tịnh độ nhân gian.
Người xuất gia đi đến đâu cũng được tự tại, đó là một ý nghĩa cao quý của việc
xuất gia.
Xuống
tóc xuất gia là chính thức dấn thân vào cuộc đời, vì cuộc đời đau khổ, chúng ta
nguyện xin cứu khổ, lấy niềm vui của mọi người để làm niềm vui của mình, lấy
hạnh phúc của người làm hạnh phúc của mình, thực hành hạnh Bồ Tát, không vì an
lạc cá nhân mà nguyện giúp hết thảy chúng sanh hết khổ được vui. Như vậy, chính
là đi vào thực tiễn của cuộc đời. Người xuất gia báo ân Tam Bảo bằng cách thông
cảm và hoà nhập với mọi người, nhu hoà và hiểu được mọi người, dùng từ bi để
đối với mọi người, cung kính tôn trọng hết thảy mọi người, cảm ơn hết thảy mọi
người.
Ý nghĩa xuất gia đối với Phật giáo:
Phật
giáo được lưu truyền trong thế gian là nhờ vào hàng ngũ tăng sĩ, thêm một người
xuất gia chính là thêm một sức mạnh hoằng pháp, làm cho Phật pháp ngày thêm
hưng thịnh. Phật pháp được hoằng truyền rộng rãi là nhờ sức mạnh của Tăng bảo.
Kinh Tán Dương Công Đức Tăng bảo cho thấy người xuất gia có nhiệm vụ giữ gìn
mạng mạch của Tam Bảo, tiếp tục ngọn đèn trí tuệ của chư Phật, kinh dạy: “Người
đệ tử xuất gia là người có thể đảm trách và kế tục chánh pháp của Như lai ở đời
sau. Nếu đem tất cả công đức của người thế gian gộp lại cũng không thể sánh
bằng một người xuất gia hoằng dương chánh pháp”.
Lịch
sử truyền bá Phật giáo đã khẳng định vai trò to lớn của Tăng bảo trong việc duy
trì chánh pháp ở thế gian. Ngày nay mặc dù kinh sách đầy đủ mà con người vẫn
khó tiếp cận với Phật giáo, chướng ngại lớn nhất của họ là không hiểu được phật
pháp, vấn đề nầy liên quan đến sự giáo dục lâu dài, đồng thời phản ảnh hoạt
động hoằng pháp chưa hiệu quả. Hơn nữa, công việc hoằng pháp chưa song hành với
nền giáo dục hiện hành, chưa có phương tiện nào có đầy đủ tính chính xác và
toàn diện để đưa Phật pháp phổ cập quần chúng, cho nên công việc hoằng pháp lợi
sanh là một trách nhiệm lớn lao mà người xuất gia phải gánh vác.
Ý nghĩa xuất gia đối với xã hội:
Xã
hội phát triển không chỉ chú trọng văn minh vật chất mà còn phải kiến tạo văn
minh tinh thần, nếu không sự phát triển của xã hội mất cân bằng. Hoằng dương
Phật pháp là tích cực đóng góp văn minh tinh thần cho xã hội. Phật pháp là tâm
pháp, thực hành phật pháp là tự rèn luyện hoàn thiện nhân cách và bình đẳng với
tất cả chúng sanh trong pháp giới. Xã hội hiện đại nhấn mạnh vai trò của sự hoà
hài, điều này rất khế hợp với tinh thần Phật giáo. Phật giáo không bao giờ nói
đến đối lập mà nói đến dung hoà. Mọi người có thể học hỏi ở Phật pháp, nếu thế
gian này mọi người đều học hỏi Phật pháp thì thế giới không còn chiến tranh,
người với người hoà hài thương yêu.
Xuất
gia là gánh vác sự nghiệp của chư Phật, tiếp tục thắp sáng ngọn đèn chánh pháp.
Sức mạnh của cá nhân tuy nhỏ bé, nhưng nếu có thể nói năng như chánh pháp, làm
những điều Phật dạy thì có thể cảm động được tâm thức của nhiều người, cống
hiến cho xã hội một giá trị hài hoà thân thiện. người xuất gia lấy việc lợi ích
cho mọi người làm sự nghiệp, giúp xây dựng xã hội thanh bình, cải thiện nhân
tâm, dùng từ bi mà bổ chính, hổ trợ cho những thiếu sót của giáo dục, góp phần
xây dựng một quốc độ an lành, hạnh phúc cho mọi chúng sanh.
Xuất
gia là truyền thống tốt đẹp của Phật giáo, là sự cầu tiến của con người, tự tại
giải thoát và chân thành sống với đời. Xuất gia là một sự tự nguyện cá nhân
không có bất kỳ một sự gán ép nào. Xuất gia là sống với một đoàn thể tăng già
hoà hợp, dung hoà một cá thể vào trong đại chúng, sống trong đại chúng để rèn
luyện chất lượng bản thân, thực hiện lý tưởng giải thoát, đồng thời đem năng
lượng từ bi và trí tuệ của đại chúng chuyển hoá thế gian, thúc đẩy cá nhân và
cộng đồng không ngừng tinh tiến./.
(Bài viết: Thích Thiện Chánh -VHPG số 110 - 15 -12 -2010)
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét