TÀI SẢN CỦA TĂNG GỒM BA Y VÀ MỘT BÌNH BÁT
Khi Phật còn tại thế chư Tăng sống bằng hạnh khất thực, nên
tài sản để nuôi thân gồm có ba y và một bình bát, rày đây mai đó không ở nhất định
một chỗ.
Tùy theo tuổi đạo mà y có các loại khác nhau: Như y 5 điều, y 7 điều, y 9 điều, y 11 điều, y 13
điều, y 17 điều, y 19 điều, y 21 điều, y 23 điều và y 25 điều.
Y ngũ điều: Là y 5 điều
tiếng Phạn gọi là A Đà Hội, gọi là tác vụ y, nghĩa là y mặc để lao tác công việc,
phục dịch trong chùa. Là y có 5 đường sọc đứng, mỗi đường sọc có 2 ô, một ô dài
và một ô ngắn, tức ô nguyên và ô nữa. Tông cộng có 5 sọc dài chia làm 10 ô ruộng
phước.
Y bảy điều: Là y có 7 đường
sọc đứng, mỗi sọc có 2 ô nguyên và một ô nữa. Tổng cộng bảy sọc chia thành 21 ô
ruộng trên thất y.
Y bảy điều tiếng Phạn gọi Uất Đa la Tăng, gọi là nhập chúng y,
thất điều y. Gồm có hai dài một ngắn, phàm khi dự trai, nghe pháp, trì kinh, ngồi
thiền, lễ Phật, lễ tháp, lễ Hòa thượng, Thượng tọa, lúc tăng hòa hợp, thời nên
mặc áo này,….
1/ Ba Y bậc hạ
có ba loại:
-
Y 9 điều có 27 ô
- Y 11 điều có 33 ô
- Y 13 điều có 39 ô.
2/ Ba Y bậc
trung có ba loại:
- Y 15
điều có 60 ô
- Y 17
điều có 68 ô
- Y 19
điều có 76 ô.
3/ Ba Y bậc
thượng có ba loại:
- Y 21
điều có 105 ô
- Y 23
điều có 115 ô
- Y
25 điều có 125 ô.
ĐẠI Y, là Y lớn
nhất trong ba y, nên gọi là Đại y, Đại y gồm có 9 loại, được phân làm ba bậc:
Thượng, trung và hạ. Thấp nhất 9 điều có 27 ô. Cao nhất 25 điều có 125 ô, bao gồm
gọi là Đại y.
Áo kép tiếng phạn Tăng già lê đây gọi là tạp toái y, có áo thuộc
9 phẩm: thượng, trung và hạ. Phẩm hạ hạ là cửu điều y (áo 9 điều) phẩm hạ trung
là áo 11 điều, phẩm hạ thượng là áo có 13 điều, điều là 2 dài một ngắn. Dài nhiều
ngắn ít biểu trưng cho Thánh tăng thêm, phàm giảm bớt. Phàm lúc vào cung vua,
lên tòa nói pháp, vào làng xin thức ăn, hàng phục ngoại đạo, thời nên mặc áo
này.
Đại y 21 điều, mỗi điều
có 4 khoản dài 1 khoản ngắn. Tổng cộng có 105 khoản. 4x21 =84 ô dài và 21 ô ngắn.
Với ý nghĩa mặc y này, cần phải thành tựu về mặt trí tuệ, luôn
sống trong đương niệm, mọi cử chỉ trong ý thức, luôn luôn kiểm soát tâm, mỗi mỗi
việc đều có chính kiến, chánh tư duy và chánh huệ làm chủ. Trí huệ ở đây muốn
nói là thứ trí tuệ luôn song hành với từ bi, không trái ngịch nhau, nó mang
tính chất thuần thiện. Muốn có trí tuệ nầy, cần phải tham cầu học hỏi và trải
nghiệm qua ba động tác, văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ, khi thành tựu mặt trí tuệ ấy, chính
phước đức thành tựu.
Thứ nữa Tỳ kheo đem tuệ học mà mình có được để ứng phó Đạo
tràng thuyết pháp độ sanh, hàng phục tà ma ngoại đạo. Chiếc y này còn gọi là
chiếc y vị tha, nghĩa là người mặc chiếc y này nên làm những việc cứu nhân độ
thế, thuyết pháp độ sanh, quảng bá chánh pháp, hay biểu lộ phước tướng trang
nghiêm, thành quả của những việc này là chính là phước điền y. Phước điền càng
nhiều công đức càng tăng, năng lượng càng mạnh, thì đạo quả chóng thành.
Đại y là loại y có phước điền lớn nhất, Tỳ kheo đắp y này mới
có đầy đủ năng lực để thừa mệnh Phật truyền bá chánh pháp. Đây là điều Phật muốn
ủy thác trọng trách cho những vị khoác chiếc y này, làm nhiệm vụ mà Phật đã
làm.
Đây là lời phát
nguyện của vị Tỳ kheo trong khi thọ pháp y này. Vậy mệnh của Như Lai là gì?
Chính là trí tuệ, tuệ giác và giác ngộ. Tỳ kheo đem những trí tuệ được giác ngộ
của Như Lai (gồm ba tạng kinh điển) truyền lại cho hậu thế. Trong Kinh Bát Đại
Nhân Giác có câu: “Duy Tuệ Thị Nghiệp” chỉ lấy trí tuệ hay tuệ giác làm sự nghiệp.
Tỳ kheo hãy thay Phật tuyên dương Chánh pháp, đúng như lời phát nguyện từ thuở
ban đầu thọ y bát.
Ngoài Đại y ra còn có loại y dành cho các vị sơ cơ gọi là Mang
y: Mang y là pháp y không có điều. Khi mặc y này đọc bài kệ rằng: Thiện tai, Đại giải thoát phục
Vô tướng phước điền y
Phi phụng như giới hạnh
Quảng độ chư chúng sanh
(Khéo thay áo giải thoát, Áo ruộng phước vô tướng, Phụng trì
đúng giới hạnh, Rộng độ các chúng sanh).
Mang y tiếng Phạn Patta Hán âm Bát tra. Tức là chiếc Ca sa dùng hai miếng
vải khâu lại mà thành, cho nên không có tướng phước điền. Được gọi là Mạn điều
y, Man y, Lễ sám y, là dành cho Sa di tập sự xuất gia, cư sĩ tại gia thọ 5 giới
Bồ tát, hay những vị Gieo duyên xuất gia (phát nguyện xuất gia trong thời gian
ngắn, 7 ngày) đều mặc y này.
Về tâm ý, vị này có
chí muốn cầu giải thoát, nên tên y này có tên gọi là y giải thoát. Nhưng đứng về
tướng, thì vị này mới chỉ là tu thử thách nên chưa có phước đức. Vì vậy nên
không có tướng phước điền trên y, cho nên gọi là vô thướng phước điền y.
Đứng về mặt giới tướng chỉ có 10 giới do Phật chế, cần phải
hành trì đúng như luật dạy và có vị thầy giám sát, vị này luôn ở bên cạnh thầy
để hầu pháp và học hỏi với bổn sư, y chỉ sư. Sau hai năm vị thầy nhận thấy giữ
đúng giới luật, có chí tu học cầu giải thoát và tinh tấn hóa độ chúng sanh, phụng
sự Phật pháp, không thối tâm, vị thầy trình lên Tăng cho truyền giới Tỳ kheo mới
gọi là chính thức xuất gia.
Kinh Tâm Địa Quán Phật dạy Ca sa có 10 lợi ích.
1/ Che thân khỏi mắc cỡ mà đầy đủ hỗ thẹn.
2/ Ngăn nóng lạnh và ruồi muỗi
3/ Biểu thị
hình tướng Sa môn.
4/ Là bảo
tràng tướng của trời người, sinh phước thuộc cõi Phạm thiên.
5/ Lúc mặc
sinh tướng tháp báu, diệt các tội ác
6/ Màu hoại sắc,
không khiến phát sanh tham dục.
7/ Ca sa là y
thanh tịnh của Phật, đoạn hẳn phiền não và là ruộng lúa tốt.
8/ Tiêu tội
và sanh 10 điều lợi
9/ Như ruộng
tốt làm tăng trưởng mầm bồ đề.
10/ Như giáp
trụ mũi tên độc phiền não không làm hại được, do đó chư Phật ba đời đều mặc.
—]–
0 nhận xét:
Đăng nhận xét