Thứ Tư, 4 tháng 12, 2019

PHẬT SỰ VÀ MA SỰ


PHẬT SỰ VÀ MA SỰ

Khái khoát Phật giáo hội nhập.  Thời đại hội nhập
Hội nhập là sự tiếp xúc, chung sống, Phật giáo hội nhập có thể hiểu Phật giáo đi vào đời, chung sống, thậm chí còn lăn lộn với cuộc đời; để giúp đời nâng cao lối sống đạo đức, hướng thiện thăng hoa về tư tưởng…Chính vì thế mà chư Phật và Bồ Tát đã trải lòng Từ đến với nhân sanh bằng tất cả yêu thương.
 Ngày nay xã hội ngày một đi lên, dân trí ngày càng nâng cao, văn minh ngày càng phát triển, khoa học công nghệ ngày càng tiến triển… nếu Phật giáo không đồng hành cùng con người, quốc thổ và thế giới thì Phật giáo sẽ đứng lại sau sự phát triển của xã hội và xa rời dòng lịch sử. Điều đó đồng nghĩa với Phật giáo là một tôn giáo chết, rồi tôn giáo ấy sớm rơi vào đêm tối  của quên lãng. Nhưng điều đó chưa quan trọng, Phật giáo vào đời không phải để người nhớ hay quên mà để ban vui cứu khổ, giúp chúng sanh hiểu được khổ đau, thấy rõ nguyên nhân đau khổ, biết được con đường đưa đến diệt khổ và cuối cùng chấm dứt đau khổ và chứng ngộ Niết bàn. Vì vậy Phật giáo phải đồng hành với cuộc đời để có thể giáo hoá con người, giúp người bớt khổ, thực hiện hạnh nguyện tự lợi và lợi tha.
 Cho nên ngài Tịnh Danh mới bảo ngài Xá Lợi Phất: “ Chẳng cần ngồi như vậy mà gọi là ngồi yên. Nếu ngồi yên thì chẳng hiện thân và ý trong ba cõi, như vậy là ngồi yên”. Ở đây muốn nói, trong xã hội ngày nay nếu chúng ta chỉ ngồi yên thiền định thì Phật giáo chỉ xoay quanh hàng ngũ xuất gia và hàng cư sĩ sẽ thấy mình không có dự phần giải thoát, sẽ xa lánh Phật giáo và tách rời Phật giáo… chính vì thế Phật giáo hội nhập, không phải vì tranh chấp tín đồ mà vì bổn nguyện duy nhất là “ Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”. Dù cuộc sống ẩn cư hay độc cư vẫn chứa đựng tinh thần ấy, vẫn có thể đem lại cảm giác an toàn, không tạo cơ hội cho ngũ dục đe doạ, cám dỗ.
 Nên tư tưởng của Duy Ma Cật nói riêng và phật giáo nói chung không phủ nhận lợi ích của độc cư, ẩn cư. Nhưng khi có được lợi ích của bản thân thì không vui riêng mà phải xuất sơn hành đạo, đem ánh sáng soi rọi khắp nhân gian. Điều đó đòi hỏi người có trách nhiệm hoằng dương đưa đạo vào đời phải có nội lực hay nói cách khác là có tài và đức. Tu sĩ trước tiên phải có niềm vui giải thoát thật sự và biết cách giúp người từ bớt khổ đến hết khổ. Cũng như muốn cứu người chết đuối tự thân không chỉ biết bơi mà còn phải nắm bắt kỷ thuật cứu người chết đuối, bằng không thì hậu quả khó lường cho cả hai bên. Tài và đức là cách nói khác của bi và trí. Người đầy đủ bi và trí thì vững chãi giữa dòng đời và trở thành mô hình lý tưởng của con người Phật giáo vào đời.
 Có lòng cứu người thương đời thì người con Phật phải biết mình đang ở vị trí nào, biết nắm bắt cuộc sống hiện tại, hiểu và đồng cảm với cách ăn ở, cách nghỉ, cách nói, cách làm, các sinh hoạt của phong tục tập quán, trình độ văn hoá của con người xã hội, quốc gia ấy, thời điểm, bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, để thích ứng và hoà mình vào đó thật sự mới có cơ hội làm cho mạng mạch phật giáo thấm vào lòng dân như đất thấm nước. Thế mới có ngày hoa bồ đề ở  trần gian, được vậy thì mới thật sự làm lợi ích cho nhân sanh. Tuy nhiên, những người đưa đạo vào đời cũng có lúc gặp khó khăn, ấy là khi không phân biệt được thế nào là Phật sự, thế nào là ma sự.
Phật sự và ma sự khi đưa đạo vào đời:
Dù ít hay nhiều trong quá trình tu học, mọi người con Phật đều có hạnh nguyện làm gì để giúp đỡ mọi người. Có người thích làm từ thiện, có người thích giảng pháp, có người thích bố thí, cúng dường hay tạo tượng đúc chuông… Nhưng trong tất cả công việc chúng ta làm, tại sao có Phật sự và Ma sự ?
 Kinh Hoa Nghiêm có nói: “Quên mất bồ đề tâm tu các thiện căn đây là ma nghiệp”. Ma nghiệp hay ma sự đều giống nhau. Kinh Hoa Nghiêm đã khẳng định nếu quên mất tâm bồ đề, dù có làm ác việc thiện thì cũng là việc của ma mà thôi.
Ở đây, ma mang ý nghĩa không thoát khỏi sự ràng buộc của phiền não, không bỏ được tham sân si, ma của ái dục lục tình khuấy động trong mỗi người chúng ta, bị rơi rớt vào con đường trầm luân trong sanh tử không giải thoát được. Ma ở đây còn khiến cho chúng ta làm những việc sai lạc so với Chánh pháp, quên mất tâm bồ đề, không thẳng đến giải thoát.
Ma sự là làm những việc chứa đầy tham, sân, si, không đoạn được ngã chấp và pháp chấp. Như Lương Võ Đế ngày xưa xây chùa, tạo tượng, đúc chuông, bố thí, cúng dường… thì cũng bị Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói là “toàn vô công đức”. Như Ngộ Đạt Quốc sư một đời ôn tầm kinh điển, thuyết pháp độ sanh, nhưng chỉ một lần đăng đàn giảng pháp mà tâm tham chưa bỏ thì mở cửa cho ma quấy, chịu khổ ung nhọt.
 Như vậy tất cả việc lớn nhỏ, nếu khi thực hiện mà ta mang trong lòng dù chỉ một niệm tham, sân, si… thì cho dù có việc tốt xấu cũng là ma, không đem lại lợi ích rốt ráo cho người, mà còn tư lợi riêng tư thì không thể nào giải thoát được. Ngược lại, nếu làm việc với “ trực tâm, thâm tâm, bồ đề tâm” làm không quên bồ đề tâm, khế hợp với tự tánh, không còn chứa đựng tham, sân, si, phiền não và tư lợi… đó là việc làm của Phật sự, cũng là việc làm của người con Phật đem đạo vào đời lợi lạc quần sanh. Vì vậy Phật giáo dù trải qua thời gian, không gian thì vai trò và trọng trách của người con phật luôn mang trong mình là “hành Như Lai sự”, đi vào đời không còn ý niệm của “nhân ngã, chúng sanh, thọ giả ”, bặt hết vọng tưởng, xứng tánh khởi hạnh để thành tựu tự lợi, lợi tha.
Phàm phu chúng sanh đầy dẫy nhơn ngã, khác với Phật là bậc đã giác ngộ, đã xa lìa nhơn ngã, chúng sanh, thọ giả, hay cái tôi và cái của tôi, sống với tâm thanh tịnh tự nhiên. Còn chúng ta làm gì cũng đầy dẫy những vọng tưởng, vọng tình, lao chao, tham lam, sân hận, si mê… hay nói đúng hơn là quên mất tâm bồ đề. Cho nên tất cả những việc làm của chúng ta dù là y kinh, y luật thì cũng chuyện mài ngói thành gương, là chuyện chỉ hưởng phước nhơn thiên chứ chưa rốt ráo giải thoát.
 Cho nên dù sau này có duyên làm việc gì, thì cũng luôn nhớ đến tâm bồ đề, có thể nhìn hình thức bên ngoài giống như ma sự nhưng vẫn là Phật sự, còn như quên mất tâm bồ đề thì tuy làm Phật sự mà lại là ma sự. Nên Phật sự và Ma sự chỉ cách nhau trong đường tơ kẻ tóc. Trong cùng một việc, khéo dụng tâm là Phật sự, không khéo dụng tâm là ma sự. Hễ là Phật sự trọn câu tự lợi lợi tha, báo được tứ ân cứu khổ ba đường. Hễ là ma thì sa đoạ tam giới, luân hồi sáu nẻo không ngày thoát ra, để một đời tu học chỉ là: “... thời giờ mãi trôi, năm tháng lần lữa, hưởng dụng càng nhiều, lợi dưỡng càng lắm, trải qua nhiều năm mà chẳng nghỉ đến việc rời bỏ. Tích chứa cho nhiều, cũng chỉ vì nuôi lấy cái thân xác hư huyễn này mà thôi ”. Cho nên trong quá trình đưa Phật giáo vào đời để làm lợi lạc quần sanh, thì tất cả chúng ta cần phải cố gắng trau dồi nội lực của tự thân, là nguồn năng lượng của việc học tu và hành trì giáo pháp của Phật ngang qua con đường tỉnh thức nội tâm mới có được trí tuệ, phân biệt rõ việc nào cần làm việc nào không cần làm, nếu không cẩn thận các niệm của tâm chỉ e liền trở thành người thừa tự tài vật trái với lời Phật dạy và đem lại lời gièm pha cho đời. Như vậy không đúng với tinh thần Phật giáo, đồng nghĩa với việc huỷ hoại Chánh pháp. Đó là việc đáng tiếc cho Phật pháp, mà cũng là phụ chí nguyện xuất trần của chính mình.
Ngày nay giữa thời thác loạn, con người cuống cuồng theo dục lạc, si mê ái tình, đồng thời cũng là buổi của công nghệ thông tin bùng nổ… để làm những Phật sự đưa đạo vào đời mà không giữ được tâm thanh tịnh, giảm tham sân si, quả là điều rất khó cho con đường hành đạo. Nhưng nếu nói vậy thì những người con Phật dù tại gia hay xuất gia đành đứng yên sao?  Vấn đề được đặt ra là làm sao Phật giáo được phát triển mà Tăng sĩ không bị cơn lốc xoáy của cuộc đời danh lợi cuống phăng đi.
Muốn vậy Tăng sĩ phải thật học thật tu, mới giống như hoa sen trong bùn mà không bị bùn làm ô nhiễm, đúng với tinh thần nhập thế của Phật giáo. Mọi Tăng sĩ phải dũng mãnh tinh tấn đi lên bằng tất cả tấm lòng từ bi và trí tuệ, nỗ lực vững chãi đưa đạo vào đời không chỉ là hình thức, mà còn cả nội dung sâu sắc, vững vàng, thâm thuý, đặc biệt là đem lại an lạc cho bản thân, tha nhân trong hiện tại và mai sau. Có như vậy Tăng đoàn Phật giáo mới trở thành sức mạnh tâm linh, khi làm tất cả Phật sự mà không bị danh lợi, ngũ dục chen  chân quấy động. Ta cùng người được thăng hoa về tư tưởng sống, không đau khổ bởi vật chất thăng hoa, không buồn thương với những duyên tình hết nợ.. chỉ còn trống không một mảng tâm hồn vô chấp, hướng đến giải thoát an vui cho mình và người.

Phật giáo với con đường vào đời.
Có thể nói có sáu con đường để Phật giáo đi vào đời. Danh từ Phật học gọi là lục Ba la mật, bao gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ ba la mật. Đây là sáu phương tiện hết sức cần thiết, sáu hạnh tu của Bồ tát, mọi hành giả Đại thừa muốn trọn hạnh tự lợi lợi tha đều phải đi qua sáu con đường này.
Ba la mật là rốt ráo, là cứu cánh, kết hợp nhuần nhuyễn giữa bi, trí và dũng. Bồ tát hay hạnh giả Đại thừa trước tiên phải có trí tuệ để hiểu, biết và tin rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê mờ, quên mất bản tâm trôi lăn trong biển khổ trầm luân. Nên Bồ tát mới phát tâm đại bi cứu độ chúng sanh, nhờ đại bi tâm đó mà hành giả dũng mãnh đi vào đời không sợ nguy nan khó nhọc, được mất hơn thua… cũng nhờ trí tuệ còn gọi là Ba la mật mà Bồ tát thấy các pháp như huyễn nên không sanh tâm dính mắc, không thấy người độ, không thấy có phương tiện độ, không thấy có chúng sanh độ, từ đó có thể dùng tất cả phương tiện thiện xảo làm bàn đạp để đưa người đến chỗ rốt ráo, cứu cánh và xem đó là hạnh nguyện độ sanh, mà không thấy chúng sanh để độ. Đó chính là tinh thần Bồ tát đánh thức bao tâm hồn đang say mê trong giấc ngủ của ngũ dục, khiến cho tâm thức của mỗi chúng sanh thoát khỏi vòng tham ái, tiến về với con đường tỉnh thức bản tâm, tu thiện làm phước, đều đem bố thí cho chúng sanh, vừa ban vui cứu khổ và hoàn thiện chính mình.
 Trì giới là nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới, cũng là hạnh nguyện tự lợi lợi tha theo những phương cách tự nhiên Đức Phật dạy làm tất cả việc thiện để lợi ích chúng sanh từ tục đế đến chân đế.
Nhẫn nhục là khi chúng ta đưa đạo vào đời ít nhiều gì chúng ta cũng phải gặp những khó khăn, trong con đường hành đạo của mình, nếu không chịu nhẫn nại để vượt qua thì việc ấy khó mà thành công, đồng thời ta cũng chưa đủ nội lực để ươm mầm trí tuệ.
Khi đã nhẫn nhục được thì đi cùng với tinh tấn tức là luôn siêng năng làm việc không từ khó khăn hay khổ nhọc mà bỏ qua, mà phải luôn luôn thăng tiến trên con đường mà mình đã chọn. Dù đó là một cạm bẫy của cuộc đời lôi cuốn, thì cũng tinh tấn trên đường đạo, không để những thú vui ở đời làm chướng ngại, để ta đạt đến kết quả về bảo sở, vượt khỏi hoá thành nhờ vào sức lực  tinh tấn của chúng ta.
 Thiền định và trí tuệ là phương pháp giữ tâm yên tịnh, tỉnh giác để đủ năng lực đưa đạo vào đời, dùng mọi phương tiện quyền biến đem ánh sáng Phật pháp vào đời cứu độ chúng sanh. Nhưng dù là sáu con đường nhưng thật ra chỉ có một cửa vào Ba la mật. Nghĩa là làm tất cả lục độ vạn hạnh mà không thấy mình làm, người làm và đối tượng để mình làm…đều là tam luân không tịch, với tinh thần vô cầu vô đắc.
Vậy có thể nói Phật giáo đi vào đời với tinh thần Bi, Trí, Dũng, cùng hạnh nguyện tự lợi lợi tha. Nghĩa là nhận vai trò sứ giả Như Lai làm trọn trách nhiệm tự lợi tha. Lẽ tự nhiên bản thân phải trau dồi việc tu việc học của mình. Về việc học, sao cho đạt tới trình độ “nói ra phải phù hợp với kinh điển, luận bàn phải dựa theo khuôn mẫu của người xưa”, về việc tu, luôn luôn tự nhắc mình “bên trong cần giữ được cái niệm công phu tu tập, bên ngoài thì mở rộng cái đức hạnh không tranh chấp”. Việc tu việc học tác động đến nhau cùng mỗi ngày mỗi tiến để có thể hoàn thiện chính mình. Tự bản thân phải nhận được pháp lạc, phải có kinh nghiệm thực tập, phải am tường giáo điển thì mới tiến vào trang bị cho phương tiện, kỷ thuật cần thiết để vào đời giáo hóa, với tinh thần vô ngã, sống được chỗ vô trụ, vô niệm, để “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không có chỗ trụ mà khởi hạnh Bồ tát làm lợi ích cho chúng sanh.
Ngày nay, các hoạt động bố thí, từ thiện, giáo dục… suốt một đời đốt cháy mọi hành giả Đại thừa với tâm nguyện vị tha mong ươm trồng hạt giống Bồ đề cho thế hệ mai sau. Nhìn về phía trước, thấy các bậc Bồ tát xưa không hề rời từ bi nguyện, vào Nam ra Bắc qua Đông sang Tây vào các tụ lạc vắng bóng người dân…truyền trao giảng dạy cho tất cả mọi người được nghe, hiểu và sống với lời Phật dạy. Ngẫm lại hành trang các bậc tiền bối mà thẹn lòng thẹn mặt, ngày nay con người đạo lực kém yếu, tội trọng phước khinh, tinh thần lười mỏi, chẳng biết lấy chi làm tư lương cho đời sống tự thân và tinh thần Phật giáo. Nhưng dù sao cũng đã mang danh nghĩa của Sa môn Thích tử, phải thường xuyên tự nhắc mình, phải siêng năng không được giải đãi,  dù không giỏi bèn ai thì cũng phải cố gắng cho được bằng lòng với chính mình, dù đã gặp nhiều thất bại thì cố lấy đó để giồi mài cho đến lúc thành công… để vươn mình uốn nắn tự thân, sao cho hạt giống bồ đề vẫn nở mãi trong lòng, cũng có lúc gieo hạt bồ đề vào đời. Ấy chính là thực hiện lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng  rằng: “Phật pháp trên thế gian, không thể rời thế gian mà giác ngộ. Rời thế gian tìm giác ngộ, giống như tìm sừng thỏ”. Như thế dù thời nào, đời nào, thế hệ nào vẫn có những đóa hoa lòng tỉnh giác nở giữa bụi trần bạt ngàn hương phấn của hoa thơm cỏ dại./.
 (Trích từ Phật giáo vào đời của Nguyễn Thị Thu Tuyết – VHPG-15-10-2018- số 307)
{]{

PHẬT SỰ VÀ MA SỰ Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét