SỰ PHÁT TRIỂN CÁC TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM SAU THỜI KỲ ĐỔI
MỚI
(1990 – 2018)
Nói đến tôn giáo là nói đến các mặt sinh hoạt tôn giáo của tín đồ, hoạt động
của chức sắc, tính pháp lý và những hoạt động của tổ chức tôn giáo: như việc
đăng ký, công nhận tổ chức tôn giáo, việc đào tạo, phong chức, phong phẩm, việc
thuyên chuyển chức sắc, việc in ấn xuất bản kinh sách, việc sửa chữa, xây dựng
nơi thờ tự, việc tham gia các hoạt động từ thiện xã hội, việc thực hiện các mối
quan hệ với các tổ chức tôn giáo quốc tế… Có nhiều công trình nghiên cứu về
chính sách tôn giáo và đời sống tôn giáo ở Việt Nam đã được công bố và thực hiện.
Nêu ra một số liệu về sự chuyển biến về đời sống tôn giáo ở Việt Nam sau thời kỳ
đổi mới. Từ pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo rồi luật tín ngưỡng tôn giáo lần lượt
ra đời đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập giao lưu quốc
tế.
1/ Về sinh hoạt tôn giáo
của tín đồ:
Sự phục hồi và tăng trưởng về tín đồ các tôn
giáo tại Việt Nam từ khi đổi mới đến nay. Lấy mốc thời gian để so sánh, năm
1990 số lượng tín đồ tôn giáo ở Việt Nam
là 13, 5 triệu người, năm 1995 là 16,1 triệu người, năm 2000 là 19,8 triệu
người, năm 2010 là 22,2 triệu người, năm
2017 tăng số lượng tín đồ là 25,3 triệu người. Như vậy từ khi đổi mới đến nay,
số lượng tín đồ các tôn giáo tăng đều theo thời gian, khoản thời gian từ năm
2010 đến năm 2017 số lượng tín đồ tăng nhanh hơn
Sự tăng trưởng về tín đồ các sinh
hoạt tôn giáo của tín đồ thực hiện tại gia đình và nơi thờ tự theo nghi lễ truyền
thống của mình. Đặc biệt thời gian gần
đây, nhiều sinh hoạt tôn giáo diễn ra với quy mô lớn kéo dài thời gian mà trước
đây không thực hiện được. Ví dụ như: Hội thánh Cao Đài Tây Ninh dịp Lễ hội Diêu Trì (Rằm tháng 8 năm Đinh Sửu-1997 ) hơn 200 ngàn người tham dự. Ban đại diện Phật
giáo Hoà Hảo ra mắt trong dịp Lễ Khai Đạo (18-5- Kỷ Mão-
1999 ) có khoản 300 ngàn người tham dự. Đại Lễ Vesak Liên Hiệp quốc 2008 tại sân
Mỹ Đình Hà Nội có hàng chục ngàn Tăng Ni, phật tử và 4.000 khách quốc tế từ 74
quốc gia và vùng lãnh thổ đến tham dự. Đại lễ Vesak 2014 Liên Hiệp quốc tại
chùa Bái Đính Ninh Bình với hơn 10 ngàn phật tử tham dự, trong đó có 1.150
khách quốc tế đến từ 95 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự. Đại Lễ Vesak Liên Hiệp
quốc tại chùa Tam Chúc Hà Nam năm 2019 có đến 20 ngàn Tăng ni phật tử tham dự,
có 500 đoàn khách quốc tế, từ 125 quốc gia đến tham dự. Lễ hội La Vang của giáo hội Công giáo tổ chức
hàng năm thu hút 100 ngàn người tham dự; lễ Kỷ niệm 100 năm Tin lành đến Việt
Nam (2011) ở Đà Nẵng, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, thu hút 30 ngàn lượt tín đồ
tham dự, chức sắc và khách quốc tế tham dự.
Sinh hoạt tôn giáo là thể hiện
niềm tin tôn giáo, thực hiện các nghi lễ tôn giáo theo giáo lý giáo luật. Tín đồ
các tôn giáo được thực hiện các sinh hoạt tôn giáo tại gia đình và nơi thờ tự
cùng những địa điểm hợp pháp khác. Đó là
nội dung quan trọng trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Năm
2016 luật tín ngưỡng tôn giáo ban hành, mở rộng việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung của tín
đồ không chỉ đối với những tổ chức tôn giáo đã được công nhận, mà còn cả đối với
những tổ chức tôn giáo chưa có ở Việt Nam, nếu đủ điều kiện theo pháp luật.
2. Về công nhận tổ chức tôn giáo .
Ở Việt Nam, trước thời kỳ đổi mới chỉ có ba tôn giáo được Nhà nước công
nhận về tổ chức là Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hội đồng Giám Mục Việt Nam, Hội
thánh Tin Lành Việt Nam miền Bắc, còn lại các tổ chức tôn giáo đều chưa được
công nhận. Từ khi đổi mới 1995 đến 2018, Nhà nước công nhận thêm 40 tổ chức tôn
giáo. Như Giáo Hội Phật giáo Hoà Hảo, Đạo Cao Đài: 11 tổ chức
(Hội thánh), đạo Tin Lành: 12 tổ chức (Hội
thánh), Hồi giáo: 6 tổ chức ( theo cấp tỉnh), các tôn giáo khác 11 tổ chức. Từ
Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo 2004, có 12 tổ chức tôn giáo được công nhận; từ
pháp lệnh, tôn giáo 2004 đến luật tín ngưỡng tôn giáo năm 2016 có 26 tổ chức
tôn giáo được công nhận, trong đó có 1 tổ chức cấp đăng ký hoạt động. Từ sau luật
tín ngưỡng tôn giáo năm 2016 có 2 tổ chức tôn giáo được cấp chứng nhận đăng ký
hoạt động . Có thể nói hầu như các tổ chức tôn giáo có trước 1975 đều được Nhà
nước công nhận và cấp đăng lý hoạt động.
Tổ chức tôn giáo được Nhà nước
công nhận là có tư cách pháp nhân- địa vị pháp lý được nhân danh tổ chức triển
khai các hoạt động tôn giáo, như: tổ chức các đại hội, hội nghị, mở trường đào
tạo, bồi dưỡng chức sắc, chức việc, phong chức, phong phẩm và điều chuyển chức
sắc, chức việc, được xuất bản kinh sách, truyền thông về tôn giáo, xây dựng sửa
chữa nơi thờ tự, hoạt động từ thiện xã hội, quan hệ quốc tế…Những hoạt động này
ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt của tín đồ và hoạt động của các chức sắc.
3- Về việc mở trường đào tạo chức sắc, chức việc các tôn giáo
.
Trước đổi mới chỉ có một số cơ sở
đào tạo chức sắc của Phật giáo, Công giáo nhưng hoạt động cầm chừng, ngắt
quãng. Từ khi đổi mới đến nay đã có các cơ sở đào tạo chức
sắc của các tôn giáo. Cụ thể, như Phật giáo có 48 cơ sở, trong đó có 4 học viện,
1 trường trung cao đẳng Phật học, 35 trường trung cấp, 8 lớp cao đẳng Phật học;
Giáo hội Công giáo Việt Nam: Có 7 đại chủng viện và 1 Học viện Công giáo Việt
Nam; các hội thánh Tin lành: 4 cơ sở; các hội thánh Cao Đài: 2; giáo hội Hoà Hảo: 1 cơ sở…
Cho đến năm 2017, các tôn giáo ở Việt Nam
có 64 cơ sở đào tạo chức sắc với tổng số trên dưới 10.000 học viên đang
theo học, trong đó Công giáo: 2.037 chủng sinh. Riêng Phật giáo Việt Nam, từ
khi đổi mới đến nay đã đào tạo được 10.000 Tăng ni bậc cử nhân Phật học, hiện
đang có 2.000 tăng ni sinh đang theo học các Phật học viện; đào tạo được 3.000
tăng ni bậc cao đẳng, hiện có 1.000 tăng ni đang theo học cao đẳng
Phật học, đào tạo được 12.000 tăng ni tốt nghiệp trung cấp; 5.000 tăng ni đang
theo học tại các trường trung cấp phật học. Từ khi đổi mới đến nay 2017 có khoảng 1.100 chức sắc
tôn giáo du học nước ngoài ở bậc thạc sĩ, tiến
sĩ. Riêng Phật giáo hơn 700 người,
trong đó có 200 người đã tốt nghiệp.
Kết quả đào tạo chức sắc đã làm
tăng số lượng chức sắc các tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1995 đến 2017 như sau:
Năm 1995 cả nước có 31.548 chức sắc,
Năm 2010 cả nước: 29.504
chức sắc; Năm 2017 cả nước 57.460 chức sắc,
1990- Phật Giáo:12.000 chức sắc,
2017 Phật giáo có 30.566 chức sắc, 1990 Công giáo: 2.700 chức sắc, 2017 Công
giáo 7.485 chức sắc,
1990 Tin lành 506 chức sắc,
2017 Tin lành có 2.065 chức sắc
Đào tạo chức sắc tôn giáo là một trong nội dung quan trọng trong hoạt động
tôn giáo, vì chức sắc là người hướng dẫn sinh hoạt tôn giáo của tín đồ, là một
trong những yếu tố đảm bảo cho việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo.
Chức sắc là người hướng dẫn sinh hoạt tôn giáo cho tín đồ
theo quy định hiện hành, chương trình đạo tạo chức sắc có hai môn học chính khoá là lịch sử Việt Nam và Pháp luật Việt Nam.
4- Về việc xây dựng sửa chữa
nơi thờ tự các tôn giáo.
Với nhiều lý do, trước đổi mới
hình như không có hoạt động xây dựng sửa chữa nơi thờ tự của các tôn giáo. Từ
khi đổi mới đến năm 2017. 95 % cơ sở thờ
tự của các tôn giáo được sửa chữa, trong đó có 1/3 được trùng tu ở quy mô lớn.
Từ năm 2003 đến 2017 có 9.343 cơ sở thờ tự được phục hồi, xây mới. Riêng Phật
giáo tỉnh Hải Dương năm 2003 có 889 cơ sở đến năm 2017 tăng lên 995 cơ sở, tỉnh
Thanh Hoá năm 2003 có 66 cơ sở đến năm 2017 tăng lên 168 cơ
sở, tỉnh Nghệ An năm 2003 có 1 cơ sở đến năm 2017 tăng lên 50 cơ sở, tỉnh Hà Tỉnh
năm 2003 có 15 cơ sở đến năm 2017 tăng lên 105 cơ sở, tỉnh Khánh Hoà năm 2003 có 264 cơ sở đến năm 2017 tăng lên 411 cơ sở, tỉnh
Lâm Đồng năm 2003 có 121 cơ sở đến năm 2017 tăng lên 200 cơ sở. Tỉnh Bình Phước
năm 2003 có 73 cơ sở đến năm 2017 tăng lên 134 cơ sở …
Về đất đai các cơ sở tôn giáo,
chính quyền các địa phương quan tâm giải quyết đất đai đối với các tổ chức tôn
giáo. Cụ thể như chính quyền thành phố Đà Nẵng cấp 5.000 m2 xây dựng
trụ sở của Hội truyền giáo Cơ đốc Việt
Nam. 10.000 m2 mở rộng
Toà Giám mục Đà Nẵng;
chính quyền tỉnh Quảng Trị cấp 15 héc ta
mở rộng khuôn viên Trung tâm hành hương Đức Mẹ La Vang; chính quyền thành phố Hải
Phòng cấp 10.000 m2 xây dựng nhà hưu dưỡng cho các linh mục, tu sĩ Giáo phận Hải Phòng; chính quyền tỉnh Ninh Bình 15.000 m2
xây dựng Trung tâm mục vụ giáo phận
Phát Diệm…Riêng đất đai cho Phật giáo, như: Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã ( Huế
): 1, 90 héc ta, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên ( Vĩnh Phúc ) 5,2 héc ta, Thiền
viện Trúc Lâm Chánh Pháp ( Tuyên Quang ) 30 héc ta ( trong quy hoạch gần 40 héc
ta ), Thiền viện Trúc Lâm Hàm Rồng
(Thanh Hoá ) 10 héc ta, Thiền viện Trúc Lâm Yên Ngộ ( Ninh
Thuận ) 4,3 héc ta, Thiền viện Trúc Lâm Phú Lâm ( Quảng Nam ) 19,5 héc ta, Thiền
viện Trúc Lâm Tây Nguyên ( Gia Lai ) 2 héc ta, Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam ( Cần thơ ) 3,9 héc ta, Thiền viện
Trúc Lâm Cà Mâu 1,9 héc ta.. Chùa Linh Sơn ( Lai Châu) 4,0 héc ta, chùa Hưng Quốc
( Sơn La ) 14 héc ta, chùa Ba Vàng ( Quảng Ninh ) 21 héc ta ( trong quy hoạch 123 héc ta), quần thể chùa
Bái Đính ( Ninh Bình ) 539 héc ta, quần thể chùa Tam Chúc ( Hà Nam ) 5.100 héc
ta… Riêng tỉnh Nghệ An với các chùa Giám ( Yên Thành ) 30,0 héc ta. Chùa Bảo
Lâm ( Yên Thành ) 14,31 héc ta, chùa
Vĩnh Phúc ( Nam Đàn ) 19,54 héc ta, chùa Đại Tuệ ( Nam Đàn ) 11, 76 héc ta,
chùa Bát Nhã ( Hoàng Mai ) 10,5 héc ta, chùa Cổ Am ( Diễn Châu ) 7, 48 héc ta.
Nơi thờ tự là một trong những
điều kiện đảm bảo sinh hoạt tôn giáo của tín đồ nên được chính quyền rất quan
tâm. Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, ngoài các cơ sở thờ tự theo truyền
thống ( chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất ) theo quy định pháp luật hiện
hành qua Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 còn có địa điểm hợp pháp phục vụ
sinh hoạt tôn giáo là đất, nhà ở, công trình mà tổ chức hoặc cá nhân có quyền sử
dụng hợp pháp theo quy định của pháp luật.
5 Về in ấn xuất bản và truyền
thông tôn giáo.
Trước đổi mới hầu như không có
hoạt động xuất bản kinh sách tôn giáo, nếu có thì thực hiện xuất bản theo quy
chế nhất thời ở ba nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, Nhà Xuất bản Thuận Hoá (Huế) Nhà Xuất bản Văn Hoá-Thông tin
(Hà Nội ) với một số đầu sách, trong đó có quyển kinh Thánh Tân ước do Hồng Y
Trịnh Văn Cân ( 1980 ) và Những vấn đề cơ bản của Phật học của Nguyễn Văn Chế (
1982 )…
Từ khi đổi mới, nhất là từ năm
1990, khi Nhà Xuất bản Tôn giáo thành lập đến năm 2014 có khoảng 4.347 đầu sách
( Phật giáo: 2869, Công giáo: 1.828, Tin lành: 680, Cao Đài: 81, Phật giáo Hoà Hảo: 42…) 1.121 văn
hoá phẩm được xuất bản với số lượng hàng chục triệu bản (
Riêng kinh Thánh xuất bản gần một triệu bản ). Chỉ riêng 5 năm hoạt động của
Nhà Xuất bản tôn giáo ( 1990-2004 ) đã xuất bản được trên 714 tựa sách,
4.200.000 bản in, trong đó có sách Phật giáo hơn 490 đầu sách, Công giáo 205 đầu
sách, Tin lành gần 45 đầu sách và hơn 205 văn hoá phẩm như:lịch,
băng, đĩa liên quan đến tôn giáo.
Cho đến 2015 các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam có 15 tờ báo
và tạp chí đang hoạt động, trong đó có những tờ báo, tạp chí có uy tín như:Văn Hoá Phật giáo, Nghiến Cứu Phật học, Khuôn Việt, Phật giáo
Nguyên Thuỷ, Giác ngộ ( của Giáo hội Phật giáo Việt Nam ),
Hiệp thông (của Công giáo), Người Công giáo Việt Nam ( của Uỷ
ban doàn kết Công giáo Việt Nam ),Công giáo và Dân tộc ( của Uỷ
ban Đoàn kết Công giáo TP Hồ Chí Minh ) Mục vụ, Thông Công ( của Tin Lành ),
Cao Đài ( của Đạo Cao Đài ), Hương sen ( của đạo Hoà Hảo )…
Riêng Phật giáo Việt Nam có chương trình truyền hình An Viên. Ngoài ra có nhiều
trang Thông tin điện tử-Website của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động.
Kinh sách, ấn phẩm tôn giáo
cùng với nơi thờ tự và chức sắc, chức việc là những phương tiện, điều kiện
không thể thiếu được đảm bảo cho sinh hoạt tôn giáo của tín đồ. Không những thế,
kinh sách ấn phẩm tôn giáo còn có những giá trị văn hoá cần
được trân trọng và lưu giữ.
6- Về tôn giáo tham gia hoạt
động anh sinh xã hội.
Về từ thiện xã hội các tôn
giáo đều tích cực tham gia đem lại nhiều sự an bình cho nhân dân mỗi khi gặp thiên
tại bão lụt hay các hoàn cảnh khó khăn khác v.v cùng chia sẻ
với chính quyền các địa phương nơi xảy ra sự kiện khốn khó. Như Phật giáo từ trước
đến 2018 có 150 Tuệ Tĩnh đường, 655
phòng chẩn trị y học dân tộc, 10 phòng khám đa khoa Tây y đang hoạt động có hiệu
quả, khám và phát thuốc miễn phí hàng chục tỷ đồng, có 10 trường dạy nghề miễn
phí gồm các nghề may, thêu, đan, điện
gia dụng, tin học, ngoại ngữ…1000 lớp học tình thương, 64 cơ sở được cấp chứng
nhận nuôi dưỡng trẻ mồ côi, 20 cơ sở nuôi dưỡng người già cô đơn, với hơn 1000
cụ ông, cụ bà. Tp Hồ Chí Minh có 5 cơ sở nuôi dạy trẻ mồ côi, khuyết tật, 4 cơ
sở nuôi người già cô đơn, 13 lớp học tình thương. Về tài chánh huy động hoạt động
từ thiện xã hội của giáo hội qua các nhiệm kỳ từ nhiệm kỳ III đến VII là: 111.733
tỷ, 296.972 tỷ, 405.300 tỷ, 2.879,432 tỷ, 6.838,199 tỷ
Công giáo và Tin lành: Năm 2016
Giáo hội Công giáo VN có tất cả 189 cơ sở y tế khám chữa bệnh và điều dưỡng, 13
cơ sở giúp đỡ bệnh nhân phong, ma tuý, HIV/AIDS, tâm thần;
159 cơ sở giúp người khuyết tật, trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa,
1554 nhà mẫu giáo, lớp học tình thương. Giáo hội Công giáo VN đã góp hàng mấy trăm tỉ vào nguồn tài chính cho hoạt động từ thiện xã hội. Triển
khai chương trình của xã hội hoá giáo dục mầm non, các giáo
phận Công giáo cả nước đã có 797 cơ sở
giáo dục mầm non.
Đạo Tin lành là tôn giáo rất
quan tâm đến hoạt động từ thiện xã hội, coi đó là lối sống đạo, là phương tiện
và điều kiện để truyền giáo, Giáo hội Tin lành đã góp vào tài chánh từ thiện xã
hội cả mấy mươi tỷ vào các việc cứu trợ bão lụt, xây
dựng cầu bê tông nông thôn, khoan giếng, tổ chức khám chữa bệnh. Các tổ chức tin lành còn kêu gọi các tổ chức phi chính phủ của Tin
lành thế giới tham gia hoạt động từ thiện nhân đạo ở VN với trị giá mỗi năm
hàng trăm nghìn đô la.
Cao Đài, Hoà Hoả cũng đã đóng góp vào tài chánh từ thiện hàng trăm tỷ đồng
mỗi năm. Giáo hội Phật giáo Hoà Hảo qua các nhiệm kỳ cũng đóng góp hàng trăm tỷ cho tài chánh từ
thiện, có 300 xe cứu thương đang hoạt động ở khu vực miền Tây Nam bộ. Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam hiện có 207 phòng thuốc phước
thiện ở 23 tỉnh thành phố.. Tịnh độ Cư sĩ Phật hội VN cũng
đã huy động 40 tỷ đồng cho việc cứu tế xã hội giúp đỡ đồng bào lũ lụt, trẻ em
nghèo, người không nơi nương tựa.
Những hoạt động từ thiện xã
hội của các tổ chức tôn giáo ở VN trong
thời gian qua đã hỗ trợ rất quan trọng với Nhà nước trong việc giải quyết gánh
nặng về mặt xã hội của một nước vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt kéo
dài, lại phải đối diện với những vấn đề xã hội mới nảy sinh. Từ thiện xã hội của
các tôn giáo ở VN là một trong những tiềm năng rất lớn cần được phát huy và
trân trọng. Vì thế Nhà nước cần phải có những chính sách cụ thể, phù hợp nhằm
phát huy nguồn lực, tôn giáo cần được xác nhận là nguồn lực và tiềm năng tốt
đem lại sự bình an và lợi lạc về vật chất lẫn tinh thần cho mọi người dân.
7- Về tôn giáo tham gia các cơ quan dân cử và đoàn thể xã hội
Tôn giáo với xã hội là mối quan hệ quan trọng của các tôn giáo ở VN, mối
quan hệ này được các tôn giáo tham gia
vào các lãnh vực: Uỷ viên Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, uỷ viên Hội đồng nhân dân, các cấp tỉnh thành, đại biểu quốc hội,
… với các danh xưng như, Phật giáo VN là
đường hướng: Đạo pháp- Dân tộc- Chủ nghĩa xã hội, Công giáo VN là: Sống phúc âm giữa lòng dân tộc,
Tin lành là: Sống phúc âm phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc, với
Hội Thánh Cao Đài là: Nước Vinh Đạo sáng
( hay Phụng Đạo, yêu Nước ) với Giáo hội Hoà Hảo là: Vì Đạo
pháp vì Dân tộc.
Các tổ chức tôn giáo không những
tham gia vào tổ chức từ thiện xã hội mà còn tham gia vào các cơ quan dân cử và
tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội.
Các tổ chức tôn giáo có người tham gia vào các cơ quan dân cử, các đoàn
thể chính trị xã hội và đoàn thể xã hội không chỉ thể hiện trách nhiệm công
dân, mà còn góp phần đưa đường hướng tôn giáo vào đời sống xã hội, để kết nối
giữa đạo và đời, đồng thời có cơ hội bày tỏ tâm tư nguyện vọng của tín đồ, chức
sắc tôn giáo với cộng đồng và với Đảng và Nhà nước.
8- Về hoạt động quốc tế của
các tổ chức, cá nhân tôn giáo.
Từ khi đất nước bước vào thời kỳ
đổi mới và hội nhập quốc tế, các hoạt động quốc tế của các tôn giáo được mở ra
trên nhiều tuyến, nhất là các quan hệ về phương diện tổ chức giữa tổ chức tôn
giáo ở Việt Nam và với các tổ chức tôn giáo thế giới như: Công giáo, Tin lành,
Hồi giáo..Ngoài các hoạt động quốc tế bình thường mang tính tổ chức hoặc giao
lưu với các tổ chức tôn giáo quốc tế, các tôn giáo ở Việt Nam tham gia tích cực
các hội nghị diễn đàn tôn giáo ở khu vực và quốc tế như: đối thoại Liên tín ngưỡng
Á-Âu (ASEM), đối thoại Liên tín ngưỡng khu vực
châu Á Thái Bình Dương, hợp tác liên tín ngưỡng các nước của Phong trào
không liên kết, đối thoại nhân quyền Việt Nam- Hoa Kỳ, đối thoại nhân quyền Việt
Nam- EU, các hợp tác liên tín ngưỡng do tổ chức các tôn giáo vì hoà bình thực hiện..
Theo thống kê của Ban tôn giáo
chính phủ, thời gian từ 2005 đến 2013, có tất cả 205 đoàn khách tôn giáo nước
ngoài vào Việt Nam hoạt động tôn giáo. Cũng theo thống kê này, trong khoảng thời
gian từ 2005 đến 2013, có 1.343 đoàn thuộc tổ chức, cá nhân tôn giáo ở Việt Nam
tham gia hoạt động quốc tế ở nước ngoài… Chỉ 20 năm từ 1995 đến 2015, riêng Phật
giáo Việt Nam có 66 đoàn đi công tác nước ngoài, đến Thái Lan, Lào, Campuchia,
Trung quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Mỹ… 6 đoàn đi dự lễ Vesak tại Thái Lan, 2 đoàn đi
dự lễ Vesak tại New York (Mỹ ).
Riêng với Giáo Hội Công giáo, sau đổi mới, từ năm
1990 đến 2015, Việt Nam đã có quan hệ không chính thức với Vati-căng qua 18 lần
hai bên gặp ở Rô-ma hoặc ở Hà Nội, hai bên đã thành lập tổ công tác hỗn hợp để bàn lộ trình quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và
Va-ti-căng. Đặc biệt, các vị lãnh đạo Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đã gặp người
đứng đầu Toà thánh Va-ti- căng trao đổi những vấn đề mà hai
bên cùng quan tâm. Như: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô XVI (2007), Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết gặp Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô XVI ( 2009 ), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô
XVI ( 2013) Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Sinh Hùng gặp Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô XVI ( 2014 ), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
gặp Giáo hoàng Phan-xi-cô tại Toà thánh Va-ti-căng (2014),
Chủ tịch nước Trần Đại Quang gặp Giáo hoàng Phan-xi-cô (2016 )… từ những động
thái ngoại giao đã nêu, từ năm 2011, Chính phủ Việt Nam đồng ý Đặc phái viên
không thường trú của Toà thánh Va-ti-căng tại Việt Nam
trong mối quan hệ với Giáo hội Công giáo Việt Nam và Chính phủ Việt Nam.
Quan hệ quốc tế các tôn giáo không chỉ đáp ứng các mối quan hệ truyền thống
của các tôn giáo, mà còn là kênh ngoại giao nhân dân mà qua đó góp phần làm cho
thế giới hiểu về Việt Nam, hiểu về chính sách đổi mới với tôn giáo và những
chuyển biến tích cực của đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Không những thế, quan hệ
quốc tế các tôn giáo còn là kênh đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc về
tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam của những người thiếu thiện cảm hoặc
thù địch với Việt Nam.
9. Về vấn đề tôn giáo ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây
Nam Bộ.
Trong khoảng thời gian cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, do nhiều nguyên nhân đạo Tin lành phát triển
nhanh trong đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và Tấy Bắc. Năm 1975, ở Tây Nguyên
có hơn 55/60 nghìn người là đồng bào dân tộc thiểu số theo Tin lành với 200 chi
hội (theo buôn ) đến năm 2017 tăng lên 550/600 nghìn người ở 1.863 nhóm (theo
buôn ). Năm 1985- 1986 xuất hiện một số
người Mông theo đạo Tin lành, nhưng cùng với thời gian, đến năm 2017 tăng lên đến
215 nghìn người, chủ yếu là người Mông. 17.550 người Dao với 1.350 điểm nhóm
theo bản ( chưa tính 34 nghìn người Mông theo Tin lành đã di cư vào Tây Nguyên)
với 1.350 điểm nhóm. Đành rằng việc theo đạo là quyền của mọi người theo quy định
của pháp luật, nhưng việc tăng nhanh số người theo đạo Tin lành ở Tây Bắc và
Tây Nguyên đã gây ra sự xung đột văn hoá giữa tín ngưỡng tại
chỗ với văn hoá, lối sống Tin lành, trong đó có việc những
phần tử cực đoan lợi dụng gây mất ổn định xã hội ở một số nơi.
Trước những tình hình trên, Đảng
và Nhà nước có nhiều văn bản giải quyết, trong đó có Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày
4-2-2005 của Thủ tướng Chính phủ Về một số công tác đối với đạo Tin lành. Chỉ
thị số 1 không chỉ tạo ra chuyển biến về nhận thức về đạo Tin lành mà còn là cơ
sở cho việc thực hiện chính sách, đúng hơn là những giải pháp cụ thể và đúng đắn
với đạo Tin lành, nhất là Tin lành ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên và Tây Bắc. Từ năm 2005, kết họp triển khai chính sách phát triển kinh tế,
văn hoá xã hội với việc thực hiện tốt chính sách tôn giáo-
trên căn bản tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân, các địa phương ở Tây Nguyên và Tây Bắc đã thực hiện bình thường hoá sinh hoạt tôn giáo bằng việc các điểm nhóm Tin lành đăng
ký sinh hoạt tôn giáo với chính quyền cơ sở. Trong thời gian ngắn ở các tỉnh
Tây Nguyên đã có đến 1.605 điểm nhóm theo buôn (làng ), chiếm 95% tổng số điểm nhóm Tin lành đăng ký với chính
quyền cơ sở để sinh hoạt tôn giáo., đã công nhận 300 chi hội. Đồng thời, ở Tây
Nguyên, các hoạt động tôn giáo như xuất bản kinh sách ( Kinh Thánh được dịch ra tiếng Ê Đê, Ba na, Gia Rai ), đào tạo chức sắc, xây
dựng, sửa chữa nơi thờ tự… của đạo Tin lành đều tiến hành bình thường. Cùng thời
gian này, cá tỉnh Tây Bắc cũng từng bước bình thường hoá hoạt
động của đạo Tin lành. Đến cuối năm 2018, ở các tỉnh Tây Bắc có gần 700 điểm
theo bản ( làng ) được đăng ký sinh hoạt tôn giáo với chính quyền cơ sở. Cùng với
cấp đăng ký sinh hoạt theo điểm nhóm là việc đào tạo chức sắc của các tổ chức
Tin lành. Một số địa phương đã tiến tới công nhận các chi hội Tin lành ( 8 chi
hội ) và xem xét việc xây dựng nơi thờ tự.
Dân tộc Khoe –me theo Phật giáo Nam tông ở Tây Nam Bộ là cộng đồng đông đảo
với gần 1,3 triệu người. Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân nên đời sống kinh tế của đồng bào còn gặp nhiều khó khăn, đời
sống tôn giáo cũng có những nội dung cần được quan tâm của Đảng và Nhà nước. Do
vậy, những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, từ khi Thủ tướng
Chính phủ có ý kiến chủ trương cụ thể về Phật giáo Nam tông Khơ-me qua Thông
báo 122/TB-CP, ngày 26-2-2004 của Văn phòng Chính phủ, các địa phương và các
ngành chức năng đã có nhiều nỗ lực thực hiện đạt được kết quả quan trọng. Trước
hết, về việc đào tạo tăng tài, năm 2006, Học viện Phật giáo Nam tông Khơ-me được
Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập tại
thành phố Cần thơ. Từ đó đến năm 2018, Học viện Phật giáo Nam tông Khơ-me
đã đào tạo được ba khoá. Cùng với việc thành lập và đào tạo
của Học viện, các địa phương đã chấp thuận việc mở lớp học tiếng Pali ở các
chùa, mở một số trường Trung cấp Pali. Thời gian này đã có hơn 100 tăng sĩ Phật giáo Khơ-me Nam tông đang du học tại nước ngoài, trong
đó có học vị thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành Phật học tại các nước như Campuchia,
Thái Lan, Myanma và Ấn Độ.
Đáp ứng nhu cầu đọc tụng, nghiên
cứu, học tập của tăng sĩ và tín đồ Phật giáo Nam tông Khơ-me, được sự hỗ trợ của
Nhà nước, từ 2004 đến 2014 Giáo hội Phật giáo Việt Nam đại diện Phật giáo Nam
tông Khơ me đã triển khai việc in kinh sách Phật giáo Nam tông Khơ me với
208.300 quyển. Đồng thời thỉnh Đại tạng kinh và kinh sách bản gốc bằng chữ Khơ
me ( Trà Vinh: 156 bộ, An Giang: 60 bộ, Kiên giang:75 bộ, Sóc Trăng:52 bộ, Vĩnh
Long: 3 bộ, Tây Ninh: 3 bộ )
Vấn đề tôn giáo và dân tộc là hai vấn đề lớn
ở Việt Nam vì có những đặc thù riêng khác, nhất là tính nhạy cảm. Vì vậy, trong
quá trình vận động cách mạng và quản lý đất nước, điều hành
xã hội, Đảng và Nhà nước luôn có chính sách riêng đối với tôn giáo và dân tộc
phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng. Những thành tựu nêu
trên là nỗ lực của các cấp uỷ, chính quyền các địa phương của
cán bộ ngành công tác tôn giáo trong việc quản lý về công tác tôn giáo trong
vùng dân tộc thiểu số.
Phần kết:
Bước vào thời kỳ đổi mới, với định hướng “nhìn lại và đổi mới”, Đảng và
Nhà nước đã vượt lên để có cách nhìn và ứng xử với tôn giáo một cách khách quan
và toàn diện, đã thấy được tôn giáo là vấn đề tồn tại lâu dài, là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận đông đảo nhân dân, từ đó kiên trì chính sách tôn trọng và
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, đồng thời nhìn nhận và phát huy những giá trị về đạo đức và văn hoá
của tôn giáo. Đổi mới chính sách tôn giáo ở Việt Nam được thể hiện ở hai Nghị
quyết chuyên biệt của Đảng: Nghị quyết số 24/NQ-TW năm 1990 và nghị quyết số
25/NQ-TW năm 2003, các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước qua Nghị định số
69/NĐ-HĐBT năm 1991, Nghị định số 26/NĐ-CP năm 1999, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn
giáo năm 2004 và luật Tín ngưỡng tôn
giáo năm 2016. Chính những chủ trương, chính sách đổi mới đối với tôn giáo của
Đảng và Nhà nước là nền tảng tạo sự chuyển biến đời sống tôn giáo ở Việt Nam.
Đời sống tôn giáo ở Việt Nam từ
khi đổi mới đến nay có sự thay đổi rất căn bản, theo chiều hướng ngày càng tiến
bộ và tích cực. Những chuyển biến trong đời sống tôn giáo làm cho quần chúng
tín đồ, chức sắc thêm tin tưởng vào Đảng
và Nhà nước cùng sự đổi mới của đất nước. Không những thế, tín đồ, chức sắc các
tôn giáo ủng hộ và tham gia tích cực vào công cuộc đổi mới. Chính điều đó đã
góp phần và sự ổn định tình hình chính trị và phát triển đất nước Việt Nam. Những
chuyển biến trong đời sống tôn giáo trong thời gian qua đã góp phần giới thiệu
với bạn bè và cộng đồng quốc tế về hình ảnh đất nước Việt Nam đổi mới, hoà bình, ổn định và phát triển, từ đó nâng cao ảnh hưởng và vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Những chuyển biến trong đời sống tôn giáo
ở Việt Nam là bằng chứng khẳng định tính đúng đắn của chính sách đổi mới của
tôn giáo ở Việt Nam./.
Trích từ: Tạp chí Công tác Tôn giáo số 6-tháng 6/2019.
Những con số liên quan đến đời sống tôn giáo ở Việt Nam thời kỳ đổi mới:
tác giả:PGS,TS: Nguyễn Thanh Xuân.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét