SỨC MẠNH CỦA NIỀM TIN
Niềm tin có khả năng
sẽ đưa con người từ vực thẳm tối tăm tiến lên phía trước, có thể cứu họ từ gục
ngả mà vươn lên đỉnh điểm của vinh quang. Niềm tin mang một sức mạnh siêu nhiên
mà con người luôn cần tới nó.
Trong phật giáo,
niềm tin vô cùng quan trọng, vì : “ Tín là căn nguyên của Đạo, là mẹ đẻ của công đức, nuôi lớn hết thảy thiện
pháp, đoạn trừ lưới nghi, đưa vượt qua dòng nước ái dục, khai thị con đường tối
thượng dẫn đến Niết bàn ”. Niềm tin có một sức mạnh tiềm tàng vô tận, thôi thúc
con người vươn tới mục đích cao xa để thực hiện hoài bảo cao đẹp của mình. Tín
là chi đầu tiên trong Ngũ căn và Ngũ lực. Tín căn là gốc của niềm tin, tức niềm
tin được xác lập một cách kiên định. Tín lực là sức mạnh của niềm tin, Khi niềm
tin được xác lập thì có sức mạnh vượt trội. Sức mạnh niềm tin có thể công phá
được tất cả mọi thành trì chướng duyên, phiền não. Và khi mà tín căn được tu
tập, làm cho sung mãn thì sẽ biến thành tín lực, tức là tạo nên sức mạnh, hỗ
trợ hữu hiệu cho hành giả thực hành
thiền định và thiền tuệ.
Trong Ngũ thường của
Nho giáo (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín), tín có một vai trò quan trọng. Đây là
lòng tin tưởng giữa người và người, là giữ trọn lời hứa để tạo lòng tin với
nhau; không được bội ước, thất tín. Người mà không có chữ tín sẽ đánh mất nhân
phẩm, tư cách của đạo làm người. Khổng Nho nói : “ Nhân vô tín, bất lập”; có nghĩa là người
không giữ chữ tín thì không đặt để vào
đâu được cả, ý nói là không thể đứng được trong thế gian, không thể làm người
được nữa. Tín trong ngũ thường, như vậy, là một trong năm yếu tố, điều kiện
để hoàn thiện nhân văn, nhân bản theo
quan niệm chung của nền minh triết Đông phương.
Người con Phật luôn
thiết lập niềm tin trên nền tảng của Tứ bất hoại tín hay còn gọi là Tứ chứng
tín. Ấy là tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và tin vào Thánh giới. Đó là bốn niềm
tin trong sáng, thuần tịnh và không bị hủy hoại đối với người đệ tử Phật trong
bất cứ trường hợp nào. Với bốn niềm tin này, người đệ tử Phật có thể đi vào
dòng dõi của bậc Thánh, sống an vui trong từng giây phút hiện tại, do sự thấy
pháp và chứng nghiệm pháp đem lại.
Tuy nhiên, bên cạnh
niềm tin cần phải có trí tuệ. Nếu chỉ tin mà không có trí tuệ soi xét thì đó là
niềm tin mù quáng. Do vậy, cần phải có đủ niềm tin và sự hiểu biết (tín và giải)
để từ đó chúng ta đi trên lộ trình tu tập luôn được tự tại và ít có sự chướng
ngại. Thành ra, tín và giải luôn song hành, hỗ trợ nhau để đi đến sự thành tựu
hạnh và chứng. Đây là nấc thang đầu tiên để hướng đến Chánh đạo giải thoát. Nếu
không thì chúng ta sẽ rất mù mờ, dẫn đến sai đường lạc lối. Do vậy, Đức Phật
phân định rõ ràng qua bốn căn cơ như sau :
1- Có tín mà không có giải đó là hạng người độn căn mà lại
chánh kiến. 2- Có giải mà không có tín là hạng người lợi căn mà lại tà kiến.
3- Vừa có tín mà vừa có giải là hạng
người vừa lợi căn mà vừa chánh kiến. 4-
Không tín không giải đó là hạng người vừa độn căn vừa tà kiến.
Niềm tin và trí tuệ
luôn đi đôi với nhau, hỗ trợ nhau trên con đường tu tập. Do đó, Ngài Long Thọ
khẳng định : “ Niềm tin là lối vào biển thánh pháp của đức Phật, và trí tuệ là
con thuyền mà người ta dùng nó để vượt qua biển ấy”. Sức mạnh của niềm tin sẽ
thúc giục trí tuệ đi vào khám phá diệu nghĩa và nếm trải hương vị của Phật
pháp. Như vậy, niềm tin là căn bản để phát sanh thiện pháp, và niềm tin là
chánh nhân để hành giả có thể nhập vào biển cả Phật pháp. Cho nên, đối với người tu học không thể không có niềm
tin. Mất niềm tin là mất phương hướng tu học chắc chắn là sẽ thoái đọa. Khi đã
kiên định trên tứ bất hoại tín, tức là tin Phật- Bậc giác ngộ vẹn toàn; tin
Pháp- đạo thoát ly tham dục, đưa đến giải thoát., tin Tăng- đoàn thể xuất gia
tu hành cao cả, thay mặt Phật truyền trao Chánh pháp, tin vào thánh giới-
nguyên tắc phòng hộ đưa đến biệt giải thoát, và xứ xứ giải thoát; còn có một
yếu tố hết sức quan trọng, đó là tin vào chính mình. Tin vào chính mình là tin
vào khả năng, năng lực sức mạnh tiềm tàng trong con người chính mình. Ai cũng
có khả năng, năng lực, và sức mạnh tự nội. Nhưng do thiếu niềm tin nên có khi
chúng ta để thui chột các năng lực và sức mạnh tự nội đó. “ Lạc quan là niềm
tin dẫn tới thành tựu. bạn chẳng thể làm được
điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin” (Helen Keller).
Thật vậy, niềm tin
có sức mạnh vô cùng kỳ diệu. Nó là một
cảm xúc trong ý chí của con người. Nó đi liền với sự hy vọng bùng cháy trong
tâm hồn. Niềm tin được ví như một động lực để giúp con người vượt qua những khó
khăn thử thách trong cuộc sống. Và để vượt qua chúng thì niềm tin vào bản thân
luôn là điều không thể thiếu. Niềm tin vào bản thân là sự ý thức về năng lực,
phẩm chất, giá trị của bản thân, đánh giá được vị trí vai trò của mình trong
cuộc sống. Niềm tin vào bản thân thực sự rất quan trọng. Bởi nó không đơn thuần
là một cảm xúc thông thường. Nó là một động lực lớn của con người. Chắc hẳn
chúng ta đã từng nghe câu : “ mất niềm tin là mất tất cả”. Tại sao lại như vậy
? Bởi thứ nhất bạn sẽ là người hiểu rõ bạn nhất. Bạn sẽ biết được toàn bộ suy
nghĩ, thế mạnh, điểm yếu của chính bản thân bạn. Bạn sẽ là người duy nhất biết
rõ bạn cần gì, ước mơ những gì, hy vọng điều gì cho cuộc sống. Nếu bạn mất niềm
tin, bạn sẽ chẳng còn quan tâm đến những điều này nữa. Bạn sẽ chẳng còn ý chí,
nghị lực để bước tiếp trên con đường mình đã chọn. Mất niềm tin, bạn sẽ chẳng
còn mục đích sống của mình là gì, vì thế
mà trở thành buông thả bất cần, lúc đó
hậu quả sẽ thật khó lường. Không có niềm tin, sống buông thả, bất cứ lúc nào
bạn cũng có thể sa ngã rồi đánh mất bản thân mình.
Trên con đường tu
tập, niềm tin sẽ định hướng, vạch lối đưa dường cho mình bước tiếp một cách
vững chãi. Đức Phật dạy: “ mỗi người hãy là một hòn đảo cho chính mình, Đức Như
Lai chỉ là bậc Đạo sư ”. Khả năng tu tập
của mình là nhân tố quyết định thành công, đừng trông chờ hy vọng ở tha nhân
nào khác, phải phát triển nghị lực sẳn có của chính mình, và sự thật mỗi người
đều có khả năng nghị lực đó.
Theo tinh thần của kinh
Pháp Hoa, mỗi người đều có Phật tánh và có khả năng thành Phật, là một vị Phật
tương lại. Sự xác tín này đã mở ra cơ hội và hy vọng lớn cho tất cả mọi người.
Họ tin rằng mình có khả năng làm Phật, nên họ luôn hành động, suy nghĩ và nói năng đúng đắn, chánh đáng. Nên tất cả mọi
việc làm đều là Phật sự, đều mang sự lợi ích cho tất cả mọi người.
Theo Đại Thừa Khửi Tín
Luận, niềm tin chân chính phải được xác lập
từ nơi tâm thức của chính mình, vì chỉ tâm ấy mới có khả năng làm Phật,
chứ không phải tìm vào một tâm nào khác. “ Phát khởi lòng tin vào chính cái tâm
bình thường ở ngay nơi mình. Từ cái tâm bình thường đó, chúng ta sẽ đi đến đất
Phật, như chư Bồ tát đang đi và sẽ đến như chư Phật đã đến ”. Bộ luận này cũng
khẳng định rằng tín căn của Đại thừa là chỉ cho Phật tánh đầy đủ trong mỗi
chúng sanh. Phật tánh là nhân thì Phật quả mới là Niết bàn thực sự .
Niềm tin tương lai
mình sẽ làm Phật đã thực sự thổi một
luồng sinh khí mới mẻ vào tâm thức tất
cả mọi người. Vì rằng mai này mình là người hoàn thiện về phước đức và trí tuệ,
nên trong mọi lúc, mọi nơi, sẽ cố nỗ lực để kiện toàn về nhân cách đạo đức, xa
lìa ác pháp, viễn ly các tư tưởng chấp thủ cố hữu để đi đến chân trời giải
thoát đích thực. Chân trời ấy là chân trời vô tham, vô sân, vô si, an lạc tự
tại, vô ngã, Niết bàn. Chính niềm tin này là nhân tố căn bản để thiết lập bất
thối chuyển tâm, dù có trải qua vô lượng kiếp thì tâm này cũng không bao giờ
thối đọa.
Niềm tin làm Phật ở tương
lai không những giúp mọi người ý thức đến giá trị bản chất của sự sống, sự lợi
lạc của cộng đồng; trái lại, nhờ niềm tin của ta đã được kiên định, nên nó có
hiệu năng tiêu diệt và chuyển hóa những ác nghiệp của ta từ bao đời kiếp. Nhờ
có niềm tin, nên ta tinh tấn nỗ lực hành trì theo Pháp Phật một cách chí thành, không nghi ngờ, do dự,
nên nghiệp nặng chuyển thành nghiệp nhẹ, quả báo nặng chuyển thánh quả báo
không đáng kể, không những vậy mà còn có cơ hội hóa giải tam độc tham sân si
nơi tự tâm của mình. Do vậy, với niềm tin kiên định, bất hoại, thì không những
chuyển hóa được những nghiệp chủng của tâm thức bằng công năng của
Giới-Định-Huệ; chuyển từ nhiễm sanh tịnh, từ những nhận thức sai lầm về một bản
ngã cố hữu, về con người, về chúng sanh, mà còn chuyển hóa được tất cả dư báo
xấu trong quá khứ cũng như hiện tại đều theo hướng Vô thượng Bồ đề. “ Người ta
không thể giữ giới nếu không có niềm tin. Do giữ giới, người ta sẽ nhập vào
trạng thái tâm thức của thiền định và cũng có thể đạt đến trí tuệ”.
Bằng đức tin này, ta
sẽ tinh cần thực hành lục độ một cách vô trú và vô tướng, chuyển hóa những vọng
tưởng sai lầm đối với tự thân, đối với con người, đối với chúng sanh, đối với
thọ mạng thành chánh trí và có khả năng chuyển hóa Khổ đế thành Diệt đế, hay
sanh tử thành Niết bàn, chứng nhập vô vi pháp thân, có khả năng sinh khởi tuệ
giác, biến tri một cách như thực đối với mọi sự hiện hữu và không hiện hữu, rồi
hưng khởi lòng từ vô biên, sử dụng vô số phương tiện thiện xảo, dạo khắp mười
phương, rưới nước cam lồ, dập tắt mọi ưu não và khơi mở tuệ giác cho hết thảy
muôn loài.
Thành ra niềm tin có
một sức mạnh kỳ diệu, có một năng lực mầu nhiệm. năng lực mầu nhiệm này có thể
chuyển hóa, làm thay đổi cuộc đời của bạn. Sức mạnh của niềm tin luôn thúc giục
ta tiến tới, vượt qua mọi gian lao trắc trở. Sức mạnh của niềm tin sẽ là sợi
chỉ hồng gắn kết con người lại với nhau trong sự thương yêu, tin tưởng. Niềm
tin là chất liệu mầu nhiệm để đưa đến diệu quả thù thắng. Nhờ đó, cuộc đời sẽ
trở nên ý vị hơn, với niềm tin hy vọng tràn trề. Để con người vươn tới xây dựng
một tương lai tươi sáng, đẹp đẽ hơn ./.
Thích Trung Định VHPG: 1-4-2018 số 294
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét