DANH XƯNG BẬC SA MÔN
Sa môn ( Samana ) là thuật từ chỉ chung cho tầng
lớp tu sĩ Ấn Độ, xuất hiện khá sớm trong lịch sử văn hoá
Ariyan, nhưng bắt đầu nở rộ vào khoảng thế kỷ thứ 7 trước Tây lịch. Đặc trưng của
tầng lớp Sa môn này là sống độc thân, không gia đình, tìm đến các khu rừng
hoang vắng, tu tập chung quanh một vị đạo sư, thực hành các pháp môn tu tập do
một vị đạo sư đề xướng, để chấp trì nếp sống không sở hữu, lang thang khất thực,
rày đây mai đó. Trong truyền thống động cơ xuất gia của thái tử Tất Đạt Đa (
Siddhattha ), ngoài ba cảnh tượng đầu trên là già, bệnh, chết, cảnh tượng thôi
thúc thứ tư, hình ảnh vị Sa môn lặng lẽ đi khất thực, hẳn đã được rút từ bối cảnh
hoạt động của các tu sĩ Ấn độ thời bấy giờ.
Nhờ chấp trì đời sống Sa môn thực hành Sa môn pháp ( Bát chánh đạo ). Đức
Phật đã đoạn tận các lậu hoặc trở thành bậc Chánh đẳng giác, thể hiện nếp sống Sa
môn thanh tịnh, làm sáng danh lý tưởng Sa môn, khiến cho danh xưng Sa môn vốn
xuất hiện trước đó càng tăng thêm ý nghĩa và giá trị. Gia chủ Potaliya từng
phát biểu: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thật sự đã gợi ở nơi con lòng ái kính Sa môn,
đối với các vị Sa môn, lòng tịnh tín Sa môn đối với các Sa môn, lòng tôn kính
Sa môn”. Đối với các Sa môn. Bà la môn Kapathika biểu lộ thái độ tương tự sau
khi nghe Đức Phật giảng thế nào là hộ trì chân lý và nêu rõ những bước đi giác
ngộ chân lý và chứng đạt chân lý . “Thật sự Tôn giả Gotama đã làm sống dậy nơi
con lòng ái kính Sa môn đối với các Sa môn lòng tín kính Sa môn đối với các Sa
môn”. Các Sa môn ngoại đạo sau khi cải
giáo tu theo con đường giác ngộ của Đức Phật đắc giải thoát, cũng nói rõ lòng
mình: “Thật sự chúng ta gần hoại vong, thật sự chúng ta gần hoại diệt. Xưa kia
chúng ta không phải là Sa môn lại tự xem là Sa môn. Nay chúng ta mới thật sự là
Sa môn ”.
Theo lời dạy của Phật thì Sa môn không phải là hình thức cạo đầu trọc mặc
áo cà sa và chấp trì các hình thái tu tập mang tính truyền thống quy ước, mà Sa
môn chính là nếp sống thanh tịnh, Giới thanh tịnh, Tâm thanh tịnh, Kiến thanh tịnh
được thể hiện trong đời sống hằng ngày.
Sa môn là tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê, là tu chế ngự,
là sống chân thật, lắng điều ác lớn nhỏ,
là tỉnh giác, tâm giải thoát. Nói cách khác, Sa môn chính là tâm giải thoát, tuệ
giải thoát, biểu lộ trong đời sống thường nhật, nhờ thực hành các pháp thánh Sa
môn, hay nhờ tu tập các pháp môn xứng
đáng bậc Sa môn.
Thế Tôn tuyên bố: Này các Tỳ kheo,
thế nào là Tỳ kheo thực hành các pháp môn xứng đáng là bậc Sa môn. Này các Tỳ kheo,
đối với Tỳ kheo có tâm sân hận và lòng tham dục được đoạn diệt, có tâm sân hận
và lòng sân hận được đoạn trừ, có tâm phẩn nộ và lòng phẩn nộ được đoạn trừ, có
tâm hiềm hận và lòng hiềm hận được đoạn diệt, có tâm giả dối và lòng giả dối được
đoạn diệt, có tâm não hại và lòng não hại được đoạn diệt, có tâm tật đố và lòng
tật đố được đoạn trừ, có tâm xan lẫn và lòng xan lẫn được đoạn trừ, có tâm man
trá và lòng man trá được đoạn trừ, có tâm xảo trá và lòng xảo trá được đoạn trừ,
có tâm ác dục và lòng ác dục được đoạn trừ, có tà kiến và tà kiến được đoạn trừ….
Này các Tỳ kheo, Ta nói rằng, nếu vị ấy thực hành các pháp môn xứng đáng bậc Sa
môn, thì có thể đoạn diệt được những cấu
uế cho Sa môn, những tỳ vết cho Sa môn, những lỗi lầm cho Sa môn, sự đoạ sanh vào đoạ xứ, và sự thọ lãnh các ác thú.
Vị ấy thấy tự ngã được gột sạch tất cả những ác, bất thiện pháp và vị ấy
thấy tự ngã được giải thoát. Do thấy tự ngã được gột sạch tất cả những ác, bất
thiện pháp ấy, do thấy tự ngã được giải thoát nên hân hoan, do tâm hân hoan nên
hỷ sanh, do hỷ sanh nên thân được khinh an, do thân được khinh an nên lạc thọ
sanh, do lạc thọ sanh nên tâm được định tỉnh.
Vị ấy an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu, cũng vậy phương thứ 2,
phương thứ 3 cũng vậy. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới, ngang, dọc, hết
thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu,
với tâm Từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân, vị ấy với tâm câu hữu với
tâm Bi, với tâm Hỷ, với tâm Xả, hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên xứ, vị ấy
an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên, không hận, không
sân..
Cũng vậy, có người từ gốc Sát đế lỵ, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không
gia đình, vị ấy đi đến pháp luật do Như Lai thuyết dạy, sau khi tu tập Từ, Bi,
Hỷ, Xả nội tâm được định tỉnh. Ta nói rằng, chính nhờ nội tâm định tỉnh, vị ấy
thực hành các pháp môn xứng đáng bậc sa môn vị ấy xứng đáng là Sa môn.
Vị ấy đoạn trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình chứng tri, chứng
ngộ và thành đạt vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Vị ấy thành Sa môn nhờ
đoạn trừ các lậu hoặc.
Trước hết Sa môn nghĩa là nổ lực nhiếp phục và diệt trừ các ác, bất thiện
pháp như tham dục, sân hận, phẩn nộ, hiềm hận, giả dối, não hại, tật đố, xan lẫn,
man trá, xảo trá, ái dục, tà kiến, khiến cho tự thân trở nên thanh tịnh, sạch
các cấu uế, không lỗi lầm, không tỳ vết, không đọa vào các ác thú. Chú tâm nhiếp
phục và diệt trừ các cấu uế, các ác dục, bất thiện pháp như vậy là dấu hiệu của
tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng trí tuệ, biểu hiện của chánh kiến
và chánh tinh tấn, hướng vận hành của Bát thánh đạo, đánh dấu sự trưởng thành của
Sa môn, giúp cho người xuất gia có được giới thanh tịnh, tâm thanh tịnh, kiến
thanh tịnh, thiết lập vững chắc nền móng của nếp sống Sa môn thanh tịnh. Người
xuất gia mà chuyên tâm dứt trừ các ác dục, làm cho dừng lại các ác, bất thiện
pháp thì dễ dàng đi sâu vào đời sống tu tập nội tâm và phát triển trí tuệ.
Thứ đến, Sa môn là người có định tâm, có tâm tăng thượng, có thiền định,
có chuyên tâm tu tập, phát triển tâm, thực nghiệm nội chứng tâm linh, đạt đến định
tỉnh, nhất tâm. Đây là hướng đi của sự thanh lọc và phát triển tâm thức được thực
hiện trên nền tảng thiền định, tức sự dứt trừ các bất thiện pháp như tham dục,
sân hận, hôn trầm, thùy miên, trạo hối,
nghi ngờ và sự phát triển các thiện pháp như tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm.
Do được gột sạch tất cả những ác, bất thiện pháp và được giải thoát nên vị
ấy cảm thấy nhẹ nhõm, hân hoan vui sướng, như người mắc nợ được trả hết, người
bệnh được thoát khỏi cơn bệnh, như người tù được phóng thích, như người nô lệ
được trả tự do, như người buôn qua sa mạc được an toàn. Do tâm hân hoan nên hỷ
sanh, nên thân được khinh an, do thân
khinh an nên lạc thọ sanh, do lạc thọ sanh nên tâm được định tỉnh.
Nếp sống của Sa môn thì phải tu thiền, phải hành thiền, nghĩa là dứt trừ
các bất thiện pháp và phát triển các thiện pháp, có hành thiền, có dứt trừ các
pháp bất thiện pháp ( tham dục, sân hận, hôn trầm, thụy miên, trạo hối, nghi ngờ
) và phát triển các thiện pháp ( tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm ) thì mới có hân
hoan sanh, hỷ sanh, khinh an sanh, lạc thọ sanh, có tâm định tỉnh. Đây là pháp
môn tu tập xứng đáng bậc Sa môn, tức hướng đi của tâm thanh tịnh đưa đến chứng đắc tri kiến giải thoát các lậu hoặc, dẫn
đến phát triển bốn tâm thái, từ, bi, hỷ,
xả được thực hiện trên nền tảng các thiền chứng.
Từ: là một tâm thái thiện, luôn
thương tưởng đến mọi người và mọi loài, mong cho mọi chúng sanh được hạnh phúc
an lạc, có khả năng loại trừ sân tâm. Trái với tâm Từ là tâm thức bất thiện,
luôn oán ghét người khác, muốn cho người khác bị tổn hại.
Bi: là một tâm thái thiện, luôn xót thương sự khổ não của người khác và
mong muốn cứu giúp, có năng lực xua tan hại tâm. Trái với tâm bi là một dạng
tâm thức bất thiện luôn tìm cách gây khổ não cho người khác.
Hỷ: là một tâm thái thiện, luôn hân hoan vui mừng và sự thành công của
người khác, thấy người khác có sự tiến bộ và thành tựu trong thiện pháp thì
sanh tâm vui mừng. Trái với tâm Hỷ là dạng tâm thức có công năng đối trị bất lạc,
một dạng tâm thức bất thiện cảm thấy khó chịu, thường hay đó kỵ với người khác.
Xả: là một tâm thái thiện, một tâm thức sáng suốt, buông xả, tự do, không
thiên vị, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải
thoát, không hệ lụy, có khả năng giải thoát tham tâm và hận tâm. Hai dạng tâm
thức bất thiện khiến cho tâm rơi vào các cấu uế, rơi vào thuận ứng và nghịch ứng,
bị trói buộc, cơ bản do sự mê muội tạo ra.
Bốn tâm thái từ, bi, hỷ, xả được mở rộng đến vô cùng vô tận, tức nói đến
năng lực giải thoát của tâm thức khỏi các cấu uế tham, sân, si, khỏi các ác bất
thiện pháp, trên cơ sở phát triển tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xả. Đây là một
cách thức tu tập gắn liền với trí tuệ, có công năng làm tiêu trừ các cấu uế
tham, sân, si, dứt trừ các ác, bất thiện pháp, khiến cho tâm lần lược đi đến giải
thoát các lậu hoặc, tham, sân, si, các ác, bất thiện pháp làm giam hãm tâm thức
con người, làm cho tâm trở nên cấu uế, ích kỷ, nhỏ mọn, không phát triển, không
giải thoát.
Do vậy con người ta có thể mở rộng tâm Từ bi, hỷ xả trên cơ sở nổ lực bào
mòn, làm giảm thiểu tham, sân, si. Không thể nói đến từ, bi, hỷ, xả khi tâm còn
cấu uế, còn bị tham, sân, si chi phối. Tham sân,si được bào mòn, được giảm thiểu
chừng nào thì, từ bi, hỷ xả càng được mở rộng và được giải thoát chừng ấy. Với
các tên gọi như Từ tâm giải thoát, Bi tâm giải thoát, hỷ tâm giải thoát, xả tâm
giải thoát và lần lượt đạt đến tâm bất động .
Nói một cách khác, sự mở rộng tâm từ, bi, hỷ, xả là một phương pháp tu tập,
tâm thức gắn liền với sự phát triển trí tuệ, có công năng dứt trừ các cấu uế
tham, sân, si, dứt sạch các ác pháp, bất thiện pháp, khiến cho tâm đi đến giải
thoát hoàn toàn các lậu hoặc, gọi là chứng đắc tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Mục đích của đời sống Sa môn là giải thoát khỏi vòng tham, sân, si, đoạn
tận các lậu hoặc, dứt sạch các cấu uế, làm cho dừng lại các ác, bất thiện pháp,
những pháp ô nhiễm đưa đến tái sanh, đáng sợ hãi, đem lại khổ quả, đưa đến
sanh, già, bệnh chết trong tương lại.
Để thực hiện điều đó thì vị Tỳ kheo cần phải thực hành các pháp môn xứng
đáng bậc Sa môn, nghĩa là thực hành Bát chánh đạo, tu tập Giới, Định, Tuệ. Phải
chú tâm dứt trừ tham dục, sân hận, phẩn nộ, hiềm hận, giả dối, não hại, tật đố,
xan lẫn, man trá, xảo trá, ác dục, tà kiến, phải chuyên tâm tu thiền định để
thanh lọc tâm thức, phải tu tập từ, bi, hỷ, xả để phát triển trí tuệ, bào mòn
tham, sân, si dứt trừ các lậu hoặc đưa đến chứng đắc tâm giải thoát, tuệ giải
thoát.
Được gọi là hạng Sa môn tinh luyện giữa các Sa môn. Ở đây này các Tỳ kheo,
do đoạn tận các lậu hoặc, Tỳ kheo ngay trong hiện tại với thắng trí chứng ngộ,
chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát giữa các Sa môn. Này
các Tỳ kheo, có bốn hạng Sa môn này có mặt xuất hiện trên đời.
Vị ấy được gọi là đệ nhất Sa môn hay Sa môn bất động, tức là người đã diệt
trừ ba kiết sử gồm thân kiến, nghi, giới cấm thủ, chứng quả dự lưu, không còn bị
đọa lạc, quyết chắc đi đến giác ngộ. Được gọi là đệ nhất Sa môn.
Vị ấy được gọi là đệ nhị Sa môn, tức là người đã diệt trừ thân kiến,
nghi, giới cấm thủ, làm cho muội lược tham, sân, si, đắc quả nhất lai, chỉ còn
một lần tái sanh nữa thì chấm dứt sanh tử khổ đau
Vị ấy được gọi là đệ tam Sa môn là người đã diệt trừ năm kiết sử, gồm
thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham dục, sân hận, chứng quả bất lai, sau khi
thân hoại mạng chung được sanh lên cõi Tịnh cư thiên và tại đây nhập Niết bàn.
Vị ấy được gọi là đệ tứ Sa môn hay
Sa môn tinh luyện, tức là người đã đoạn tận 10 kiết sử gồm 5 hạ phần kiết sử (
thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham dục, sân hận ) và 5 thượng phần kiết sử ( sắc
ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh ) thành tựu chánh trí, đắc quả A La Hán,
ngay trong đời này, không còn chịu khổ đau sanh tử luân hồi ./.
( Trích: Danh xưng bậc Sa Môn: Hữu Khang-
VHPG số 336- 1-1- 2020 )
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét