PHẢN TƯỞNG KHỔ LÀ LẠC
Trong Trung Bộ Kinh, đức Phật giảng cho du sĩ Magandiya về sự
lợi ích của sự nhiếp phục lòng tham và
phân tích về sự nguy hiểm của các dục,
tức những tổn hại lòng tham muốn các lạc thú thế gian (sắc đẹp, tiếng hay,
hương thơm, vị ngon, cảm xúc êm dịu) gây
ra, Đức Phật xác nhận những ai chưa đoạn
trừ tham ái đối với các dục, đang bị các dục ái nhai nghiến, đang bị dục nhiệt
não thiêu đốt, với các căn bị hư hoại, do sự xúc chạm đau khổ với các dục, lại
có phản tưởng là hạnh phúc.
Thông thường, con
người sống ở đời xem các lạc thú thế gian là hạnh phúc, đôi khi còn cho đó là hạnh
phúc tối thượng, tức sự thỏa mãn lòng khao khát sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm,
vị ngon, cảm xúc êm dịu hay sự sở hữu và thụ hưởng đầy đủ các thứ khoái lạc như
tiền tài vật chất (tài), danh vọng quyền lực (danh), sắc đẹp khác phái (sắc),
ăn uống no say (thực), ngủ nghỉ êm ái (thùy). Hẳn là quan niệm và kinh nghiệm
thực dụng này có công năng kích thích đời sống con người, khuyến khích các hoạt
động tạo tác của con người, thôi thúc con người nỗ lực tìm kiếm và sở hữu các
khoái lạc trần thế, càng nhiều càng tốt, càng nhiều càng hạnh phúc. Đó không
khác gì là chủ đích và xu thế vượt trội của nền văn minh vật chất đã và đang
ngự trị mạnh mẽ trong đời sống nhân loại, một nền văn minh được xây dựng trên
lòng tham, cổ vũ lòng tham và làm tăng trưởng lòng tham dục ở bên trong con
người. Chắc chắn không ai có thể phủ nhận và chối bỏ một đời sống gắn liền với
sự sở hữu các tiện nghi khoái lạc vật chất. Tuy nhiên, chính do quan niệm và
kinh nghiệm thực dụng này mà nhân loại thường xuyên phải đối mặt với các khủng
hoảng và thách thức, không ngừng rơi vào tranh chấp, tranh đoạt, cướp bóc, xâm
lăng và tàn hại lẫn nhau chỉ vì mục đích thỏa mãn lòng tham, khiến cho lịch sử
loài người ngập tràn chiến tranh hơn hòa bình, đời sống nhân loại đổ đầy nước
mắt hơn nụ cười, vì “ dầu mua bằng tiền vàng, các dục khó thỏa mãn” và bởi “các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều,
sự nguy hiểm càng nhiều hơn”.
Trong kinh Phật dạy :
“ Này các Tỳ kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân,
do chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua, Sát đề lỵ tranh đoạt với Sát đế
Lỵ, Bà la môn tranh đoạt với Bà la môn, gia chủ tranh đoạt với gia chủ, mẹ
tranh đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ, cha tranh đoạt với con, con tranh
đoạt với cha, anh em tranh đoạt với anh em, anh tranh đoạt với chị, chị tranh
đoạt với anh, bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Khi họ đã dấn mình vào tranh chấp,
tranh luận, tranh đoạt, họ công phá nhau bằng tay; họ công phá nhau bằng đá, họ
công phá nhau bằng gậy, họ công phá nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi
đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỳ kheo, như vậy là sự nguy hiển các dục là nguyên nhân của dục.
Lại nữa, này các Tỳ
kheo, do dục làm nhân do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung
và tên, họ dàn trận hai mặt, và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném
nhau, kiếm được vung chém nhau. Họ bắn đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau
bằng đao, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau
khổ gần như tử vong. Này các Tỳ kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục là nguyên
nhân của dục.
Lại nữa, này các Tỳ
kheo, do dục làm nhân..do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung
và tên, họ công phá thành quách mới trét vôi hồ và tên được nhắm bắn nhau, đao
được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Ở đây họ, họ bắn đâm nhau bằng
tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ đổ nước phân sôi, họ đè bẹp nhau bằng đá,
họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như
tử vong. Này các Tỳ kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục là nguyên nhân của
dục.
Lại nữa, này các Tỳ
kheo, do dục làm nhân do chính dục làm
nhân, họ đột nhập nhà cửa, họ cướp giật đồ đạc, họ hành động như kẻ cướp, họ
phục kích các đường lớn, họ đi đến vợ người. Các vua chúa khi bắt được một
người như vậy liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh
bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ chặt chân, họ chặt tay chân, họ xẻo
tai, họ cắt mũi, họ xẻo tai cắt mũi, họ dùng hình phạt vạc dầu sôi . v.v ..họ
cho chó cắn, cho cọp nhai, voi dày, họ đóng đinh v.v Ở
đây họ đi đến tử vong, đi đến sự khổ đau gần như tử vong. Này các Tỳ kheo, như
vậy là sự nguy hiểm của dục là nguyên nhân của dục.
Lại nữa, này các Tỳ
kheo, do dục làm nhân do chính dục làm nhân, họ sống làm các ác hạnh về thân,
làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ý. Do họ sống làm các ác hạnh về
thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm
các ác hạnh về ý, khi thân hoại mạng chung, họ sanh về cõi dữ, ác thú, đọa xứ,
địa ngục. Này các Tỳ kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, đưa đến khổ đau tương lai, là khổ
uẩn, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nhân duyên. Do chính dục làm
nhân”.
Sự phân tích của bậc
Giác ngộ cho chúng ta thấy dục lạc hay các lạc thú thế gian là nguyên nhân của
mọi bất hạnh khổ đau xảy ra cho con người và cuộc đời. Chúng được xem là loại
hạnh phúc có khổ đau, có phiền não, có ưu não, có nhiệt não, vì chúng đưa đến
tranh chấp, tranh đoạt, chiến tranh, gây nên nhiều tai họa khổ đau cho nhân
thế. Hẳn nhiên, bất hạnh khổ đau xảy ra không hoàn toàn do dục lạc mà do con
người thiếu hiểu biết đầy đủ về dục lạc; con người chỉ thấy vị ngọt của các dục
lạc mà không thấy sự nguy hiểm của các dục lạc, càng không biết cách chế ngự và
thoát ly các dục; vì thế con người mới bị lòng tham trói buộc và chi phối, mới
mê say khao khát dục lạc, mới đi đến
tranh chấp, tranh đoạt, cấu xé và tàn hại lẫn nhau chỉ vì mục đích sở hữu và
thỏa mãn các dục. Sự thiếu hiểu biết này thật tai hại vì nó khiến cho con người
hoàn toàn mê mờ và mù lòa, nhầm tưởng khổ là lạc, tiếp tục lôi kéo và giam hãm
loài người trong thế giới tranh chấp khổ đau.
Đạo Phật không phủ
nhận dục lạc hay các lạc thú thế gian. Đạo Phật chỉ nêu rõ dục lạc vui ít khổ
nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn và khuyến khích mọi người nỗ lực
tu tập, nâng cao đời sống tâm thức để
hạn chế và vượt qua các phiền toái khổ đau do lòng tham muốn dục lạc gây ra.
Với kinh nghiệm của bậc Giác ngộ, Đức
Phật nói cho chúng ta biết con người không thể thoát khỏi phiền não khổ đau do lòng tham muốn dục lạc
tạo nên, trừ phi người ấy có sự tu tập chuyển hóa đời sống nội tâm, thực nghiệm
các cấp độ an lạc tự nội. Nói cách khác,
con người có thể khắc phục và đoạn trừ mọi bất hạnh khổ đau cơ bản do
dục vọng gây ra, nếu con người có được sự hiểu biết đầy đủ về vị ngọt và sự
nguy hiểm của các dục, cùng lúc có phương pháp tu tập thoát khỏi sự trói buộc và chi phối của các dục.
Đức Phật nói với Mahanama rằng : thuở xưa, khi ta
còn là Bồ tát, chưa chứng Bồ đề, chưa thành Chánh đẳng Chánh giác, Ta khéo thấy
với như thật chánh trí tuệ, “ Các dục vui ít khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm
ở đây lại nhều hơn” dầu Ta có thấy với
như thật chánh trí tuệ như vậy, nhưng Ta
chưa chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào
khác cao thượng hơn. Và như vậy Ta biết rằng, Ta chưa khỏi bị các dục chi phối.
Và này Mahanama, khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ : “Các dục,
vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn ”, và Ta chứng
được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp hay một pháp nào khác cao thượng
hơn, như vậy Ta khỏi bị các dục chi phối .
Này Magandiya, Ta
thuở trước, khi còn tại gia, Ta sống hưởng thụ một cách đầy đủ, một cách sung
mãn, năm dục lạc trưởng dưỡng, các sắc pháp do mắt nhận thức, các sắc pháp này
là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn, các tiếng do tai
nhận thức các hương do mũi nhận thức các vị do lưỡi nhận thức các xúc do thân
nhận thức,các xúc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nay
Magandiya, Ta có ba tòa lâu đài, một cho mùa mưa, một cho mùa đông, một cho mùa
hạ. Này Magandiya, trong bốn tháng mùa mưa, Ta sống hưởng thụ trong lâu đài mùa
mưa, được những nữ nhạc công giúp vui và không bước xuống khỏi lâu đài ấy. Rồi
Ta sau một thời gian, sau khi như chơn biết được sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các dục vọng; sau khi đoạn tận dục ái, sau
khi trừ diệt nhiệt não của các dục, Ta trú với khát ái được đoạn trừ, với nội
tâm an tịnh. Rồi Ta thấy chúng sanh khác, chưa xả ly tham ái đối với các dục
đang bị các dục ái nhai nghiến, đang bị dục nhiệt não thiêu đốt, đang chạy theo
dục lạc. Ta không ước vọng được như họ; ở đây, Ta không ham thích. Vì sao vậy ?
vì rằng, này Magandiya, có hỷ lạc này, ly dục, y bất thiện pháp, sau khi chứng
đạt Thiền lạc, được an trú, hoan hỷ trong hỷ lạc ấy. Ta không ao ước cái gì
thấp kém, ở đây, Ta không ham thích.
Kinh nghiệm tu chứng
của Đức Phật xác nhận rằng ngoài dục lạc hay các lạc thú thế gian dễ làm cho
con người rơi vào mê say tham đắm, nhầm tưởng khổ là lạc, tự mình bị sầu lại
tìm cầu cái bị sầu, con người có khả năng sở hữu nhiều niềm vui hay nhiều loại
hạnh phúc khác cao cả hơn, sâu lắng hơn, an ổn hơn dục lạc hay các khoái cảm
trần thế. Đó là sự thanh thản an lạc nội tâm, đạt được nhờ chuyển hóa và thanh
lọc tâm thông qua hành Thiền. Đây chính là phương pháp chuyển hóa tâm thức rất
quan trọng, làm phát sinh các cấp độ an lạc tinh tế sâu lắng thuộc nội tâm gọi
là Thiền lạc, có khả năng làm thay đổi
cảm thức của con người về kinh nghiệm hạnh phúc.
Theo kinh nghiệm của
Đức Phật thì Thiền lạc có khả năng đối trị và loại trừ lòng đam mê dục lạc, vì
Thiền lạc vi diệu, thù thắng và an ổn hơn dục lạc. Bậc giác ngộ đánh giá cao
Thiền lạc, gọi hành thiền là Tăng thượng tâm và hiện tại lạc trú, vì việc hành
Thiền, chứng đạt Tăng thượng tâm, giống như người đứng trên núi cao, có thể hít
thở không khí trong lành và thưởng thức vẻ đẹp kỳ diệu của một cảnh quan thiên
nhiên rộng lớn, so với cảm thức giới hạn của người không hành thiền, đứng dưới
chân đồi, bị dục lạc chi phối. Đây hẳn là kinh nghiệm và giải pháp thiết thực
bổ ích cho đời sống của con người, giúp cho con người tìm thấy lối đi quân bình
và hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tâm thức, giải tỏa được các tâm
lý ngột ngạt và tẻ nhạt của lối sống một chiều tìm kiếm và thụ hưởng dục lạc.
Nhìn chung, sự hiểu
biết đầy đủ về các dục khiến cho con người bị trói buộc và chi phối bởi dục
lạc, nhầm tưởng dục lạc là hạnh phúc, không thấy được sự nguy hại khổ não của
các dục hay lòng khao khát thỏa mãn các lạc thú thế gian. Con người càng thích
thú chạy theo dục lạc, càng khao khát thỏa mãn các dục, thì càng bị các dục
trói buộc và chi phối đến độ trở thành nô lệ hoàn toàn cho các dục, thực thi
lối sống bị trói buộc khổ đau giữa các dục mà không hay biết; giống như người
bị bệnh cùi càng hơ đốt thân mình trên hố than hừng chừng nào thời miệng các
vết thương lại càng thêm bất tịnh, càng thêm hôi thối và càng thêm thối nát, và
người ấy chỉ có cảm giác dễ chịu, thỏa thích do nhân duyên gãi ngứa miệng vết
thương.
Đáng chú ý rằng có sự
khác biệt hoàn toàn về kinh nghiệm và khuynh hướng tìm cầu hạnh phúc giữa chúng
sanh và các bậc giác ngộ. Những gì chúng sanh xem là hạnh phúc thì các bậc giác
ngộ thấy là khổ đau. Những gì chúng sanh khao khát tìm cầu thì các bậc giác ngộ
lặng lẽ rời bỏ. Với các bậc giác ngộ thì các dục lạc là phiền toái khổ đau,
buông bỏ được lòng tham dục thì giải thoát an lạc. Nhưng đối với chúng sanh thì
các dục lạc là vui thích là hạnh phúc, rời xa các dục là sầu muộn khổ đau. Vì
sao như vậy ? vì chúng sanh không tìm thấy và chưa tìm thấy được loại hạnh phúc
nào khác, ngoài dục lạc hay các lạc thú thế gian. Một người chỉ có một món ăn
duy nhất là dục lạc thì không bao giờ rời bỏ được dục lạc, dù biết rằng đó là
khổ đau. Nhưng một người sở hữu nhiều loại hạnh phúc khác vi diệu và thù thắng
hơn dục lạc thì không có gì khó để buông bỏ dục lạc, cũng đồng nghĩa là buông
bỏ trói buộc khổ đau.
Đó là lý do vì sao
Đức Phật khuyên các học trò mình cần phải nhận thức cho thật đầy đủ về các dục,
về vị ngọt, sự nguy hiểm của các dục lạc và trên hết, phải thực hành con đường
chế ngự và xuất ly các dục (hành Thiền) để có được sự thăng tiến tâm thức (Tăng
thượng tâm), sự thăng hoa hạnh phúc (tăng
thượng an lạc) từng bước nâng cao đời sống nhận thức, nâng cao đời sống tâm
thức, nâng cao đới sống giải thoát trong đời sống hằng ngày, ngăn tránh sự
quyến rũ và trói buộc của dục lạc vốn tiềm ẩn nhiều nguy cơ tranh chấp đưa đến
bất hạnh khổ đau của thế giới loài người./.
Trích từ : Nguyên Hoàn . VHPG .1-4-2018. Số 294.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét