NĂM THỨ TRIỀN CÁI
Triền cái là gì ? Triền là trói buộc, trói buộc gì, trói buộc
chúng sanh trong khổ đau sanh tử luân
hồi. Cái là che đậy, tức màng vô minh che lấp bản tâm thanh tịnh và trí tuệ
sáng suốt. Khi thực hành Thiền quán, hành giả thường hay vướng vào 5 chướng
ngại này mà thuật ngữ Phật học gọi là 5 triền cái hay ngũ triền cái, làm cho
việc thực tập thiền khó được như ý muốn.
Năm thứ này thường hay hiện khởi làm cho các đề mục Thiền quán bị tán
loạn, phân tâm và khó chú tâm đưa đến tịnh chỉ, an trú trên các đề mục thiền. Năm
triền cái là năm pháp làm trở ngại và che lấp tâm định, làm yếu ớt trí tuệ.
Năm triền cái là :
tham dục, sân giận, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quá và hoài nghi. Những
phiền não này không chỉ chướng ngại cho sự thiền quán mà còn áp lực chính đối với
nguyện vọng giải thoát giác ngộ của người tu tập.
Chúng có tên là
“triền cái” là vì chúng che án và bao phủ tâm, ngăn cảng sự phát triển thiền ở
hai lãnh vực, tịnh chỉ và tuệ giác. Về mặt kỷ thuật đối lập với Thiền, chúng
thường khá tinh tế trong hình thức. Khi hành Thiền đạt đến mức độ cuối cùng của
sự đoạn tận các triền cái là đạt được
quả vị A La Hán, khi đó chúng bị cắt đi như một gốc cây cọ, vĩnh viễn không thể
mọc lại được nữa. Vì lý do đó mà Đức Phật gọi năm triền cái này là “những
chướng ngại, ngăn che, làm uế nhiễm tâm, làm yếu trí tuệ”. Năm triền cái này
tác thành si ám, tác thành không mắt, tác thành vô trí, đoạn diệt trí tuệ, dự
phần vào tổn hại, không đưa đến Niết bàn.
Năm triền cái này
được ví như sự vẩn đục của hồ nước theo 5 cách khác nhau :
Triền cái đầu là tham
dục, ví như nước bị nhuộm màu, do đó
không còn trong sạch, tinh khiết nữa. Sân hận giống như nước bị đun sôi, trở
nên hổn loạn. Hôn trầm thụy miên, ví như nước bị rong rêu bao phủ. Trạo cử hối
quá, ví như gió thổi làm tung tóe. Và nghi ngờ ví như nước được đặt trong bóng
tối và làm rối loạn tâm. Với việc loại trừ 5 thứ trở ngại “triền cái” ấy, nước
sẽ trong sạch tinh khiết trở lại.
Kinh Tạng Nikaya còn
phản ánh ý thức về sự hiện diện của những triền cái diễn ra trong cuộc sống
hằng ngày. Một số bản kinh mô tả chúng hoạt động trong khi đi, đứng, nằm, ngồi,
kể cả trong khi buôn bán làm việc. Chúng tác động trực tiếp lên tâm ý và cơ
thể. Chúng chi phối đến mọi hoạt động của con người làm nảy sinh ra những trạng
thái tâm: chẳng hạng như không muốn làm những gì chúng ta đang làm, khởi lên
những ham muốn cái gì khác, làm cho chúng ta trở nên bực bội, mệt mỏi, bồn
chồn, hưng phấn và nghi ngờ tất cả những gì chúng ta đang làm. Một vòng tròn
luẩn quẩn có nguyên nhân và điều kiện chi phối thân tâm chúng ta. Và nó được
thấy rõ ràng nhất khi chúng ta thực hành thiền định.
Nội dung của năm
triền cái .
1/ Tham dục : Tâm sở tham dục có trạng thái ưa thích, đam mê,
ham muốn, dính mắc sự khát khao “năm dục lạc” làm cho tâm phân tán khó tập trung.
Nó là một hình thức của phiền não gốc tham, đó là một cách biểu hiện của ái mà
Đức Phật xác nhận là nhân sanh khổ. Quá ham muốn đắc định cũng là một trở ngại
cho tâm định
2/ Sân hận : Tâm sở sân biểu thị sự ghét bỏ, trạng thái bất
mãn, bất bình, không hài lòng đối với người hay vật, không vừa ý. Tầm mức của
nó thay đổi từ bực mình nhẹ nhàng đến lòng oán hận thâm sâu. Sân làm cho tâm
nóng nảy, khó hoan hỷ, an vui trong đề mục thiền định.
3/ Hôn tầm-thụy miên : Đây là một chướng ngại kép. Hôn trầm
là sự đình trệ, dã dượi của tâm. Thụy miên là trạng thái mơ màng, ngái ngủ của
thân. Hai tâm sở này đồng một tính chất ươn hèn, nhu nhược và thụ động, khiến
cho tâm không thể chú hướng vào đề mục thiền định được.
4/ Trạo-hối : Tâm sở trạo cử có trạng thái phóng tâm, suy
nghĩ vẩn vơ, nhất là về tương lai. Tâm sở hối quá có trạng thái nóng nảy, ray
rứt, hối tiếc về những sai lầm hay tội lỗi đã làm trong quá khứ (tránh lầm lẫn
với trạng thái ăn năn, hối cải thuộc thiện). Hai tâm sở này đồng một tính chất
tháo động, bồn chồn, bất an khiến cho tâm không an lạc trên đề mục thiền định.
Ví dụ như khi đang cố gắng chú tâm được vài giây thì tâm đã trược khỏi đề mục.
Nếu do lười chán hay giải đãi mà không an lạc, đó là triền cái hôn trầm thụy
miên, nếu do suy nghĩ vẩn vơ hay hối tiếc bứt rứt mà không an ổn thì đó là
triền cái trạo hối.
5- Nghi : Đức Phật
giải thích nghi ngờ là sự không chắc chắn chủ yếu và sự thiếu tín nhiệm đối với
bốn hạng mục: Phật, pháp, Tăng và Giới. Ở những nơi khác, Ngài giải thích tâm
sở nghi là nghi ngờ liên quan đến quá khứ, hiện tại và tương lai. Do vậy, đoạn
trừ được tâm sở này thì phải hiểu rõ định lý nguyên nhân và điều kiện. Tâm sở
nghi có trạng thái lưỡng lự, phân vân, do dự, bất quyết. Tâm sở này làm cho tâm
không đứng vững được trên đề mục thiền định.
Hôn trầm thụy miên là
tâm sở có trạng thái thụ động, thiếu tinh tấn cho nên có mặt trong các tâm hữu
trợ. Trạo hối và nghi là tâm sở có trạng thái dao động, làm cho tâm không sáng
suốt, cho nên thay nhau có mặt trong hai tâm si.
Các triền cái tiêu
biểu cho toàn bộ những trạng thái tâm ô nhiễm bao gồm ba bất thiện căn, tứ bộc,
tứ kết, tứ lậu, tứ thủ, thập phiền não,
thập kiết sử. Các triền cái được Đức Phật so sánh như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục
tù, như cảnh nô lệ, như con đường đi qua sa mạc. Chúng che mắt con người khiến
họ không thể được lợi ích của bản thân mình, lợi ích của người khác hoặc lợi
ích của cả hai. Do ảnh hưởng của các triền cái, con người làm những điều lẽ ra
họ không nên làm và xao lãng những bổn phận lẽ ra họ phải làm. Chúng làm uế
nhiễm tâm, suy yếu trí tuệ, tác thành si ám, tác thành không mắt, đoạn diệt trí
tuệ, dự phần vào tổn hại, không đưa đến Niết bàn. Ví như vàng bị suy kém bởi
năm tạp chất- sắt, đồng, chì, thiếc và bạc- “ không mềm dẽo, không dễ dùng,
không chói sáng, dễ bể vụn và không thể chạm đồ tinh xảo được”. Tâm cũng vậy,
bị uế nhiễm bởi năm triền cái, không nhu nhuyến, không dễ dùng, không chói
sáng, cứng rắn và không thể định tâm chân chánh vào việc đoạn trừ các lậu hoặc.
Chính vì vậy mà Đức Phật nói về chúng “ này các Tỳ kheo, nếu ai nói một cách
chân chánh về các triền cái, người ấy phải nói chúng là ‘ một đống tâm bất
thiện vì quả thực năm triền cái này là
một đống tâm bất thiện hoàn toàn.”.
Các hình ảnh tiêu
cực của những triền cái :
Trong kinh Đức Phật
đưa ra ví dụ, so sánh năm triền cái giống như năm loại tạp chất chứa trong
vàng. Đức Phật lại bảo rằng : “ Cũng vậy, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo tự mình,
quán năm triền cái chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh
nô lệ, như con đường qua sa mạc.”
Ham muốn nhục dục như
các con nợ : Triền cái đầu tiên là ham
muốn đối với các đối tượng giác quan, nó cũng được gọi là sự khao khát thèm
muốn với mọi thứ. Tham dục là triền cái phổ biến nhất, sự biểu hiện của tham
dục đối với sáu trần cảnh, cảm giác mơ mộng, hoặc bị phân tâm bởi một số kích
thích tham muốn (đặc biệt âm thanh và suy nghĩ). Đức Phật ví sự tham dục như
thể đi vay nợ, các sự khoái lạc ta có qua năm căn đều phải trả lại qua các đau
khổ về biệt ly, mất mát hoặc sự trống rỗng đói khát, vốn sẽ theo đuổi mãnh liệt
sau khi các khoái lạc đã bị tiêu tan, cũng như bất cứ món nợ nào đều phải trả
thêm lời, và như thế Đức Phật dạy rằng sự khoái lạc đó thật ra là nhỏ bé so với
các đau khổ phải hoàn trả.
Sân hận như người bệnh
: Triền cái thứ hai là sân hận, sân hận
là mặt trái của tham dục, nó là một cặp song sinh đi liền với nhau. Bởi không
thỏa mãn tham dục thì tâm sân hận hiện khởi. Mỗi khi tân sân hận hiện khởi, thì
chúng đốt cháy cả rừng công đức. Sân hận không chừa một ai, làm mất lý trí, nên
có thể bất kính với người lớn hơn hoặc ngang hàng, hoặc thậm chí trở nên khó
chịu với những người khác, tạo ra tiếng ồn, thiếu khiếm nhã và không thể kiềm
chế. Giống như một bát nước được đem đun sôi dữ dội trên một ngọn lửa mạnh.
Hôn trầm, thụy miên
như các tù nhân : Triền cái kép này đưa đến sự dã dượi thân và tâm, làm mất
nhuệ khí, thiếu tinh tấn và tiến bộ tâm linh, đó là hôn trầm và thụy miên. Lý
do thật sự là năng lượng của một người rất nặng nề và bị tắt nghẽn do hậu quả
của quá nhiều suy nghĩ và nhạo báng tinh thần. Giống như một hồ nước bị tràn
ngập với những cây rêu mọc đầy trong
nước. Đức Phật ví hôn trầm thụy miên như ngục tù. Người bị giam
cầm trong ngục tù thì không bao giờ thấy tự do và thoải mái. Hôn trầm và thụy
miên là một trạng thái khó chịu của thân và tâm, quá cứng đọng không thể đi vào
sự an lạc của thiền tập, và mù quáng không thể khám phá ra các Tuệ quán. Tóm
lại, đây hoàn toàn là một sự phí phạm thời gian.
Bồn chồn và trạo hối
như nô lệ : Khi tâm trí của ta bị lôi
kéo vào trong quá khứ, nhớ lại những điều mình đã làm hoàn thiện hoặc chưa hoàn
thiện, nó cũng có thể có khả năng để trở thành hối hận. Khi tâm trí của ta đi
lang thang vào tương lai, tự hỏi phải làm gì sau khi thiền định, và như vậy,
chúng ta có khả năng để trở nên bồn chồn, cả thân và tâm, hoặc chúng ta có thể
vui mừng với tiến trình rõ ràng của chúng ta, hoặc nản lòng vì chúng ta thiếu
tiến bộ, đó là sự bồn chồn và hối hận, đây là triền cái thứ tư. Điều này cũng
giống như tìm kiếm sự phản chiếu của chúng ta trong hồ nước đang bị khuấy động
và bị gió mạnh thổi cuốn tung. Đức Phật
ví trạo cử như một tên nô lệ, tiếp tục chạy nhảy theo lệnh của ông chủ khắc
nghiệt luôn luôn đòi hỏi sự toàn hảo và như thế không bao giờ cho phép nó được
dừng nghỉ. Hối hận là một trạng thái đặc biệt của trạo cử, là nghiệp quả của
các hành động bất thiện. Cách duy nhất
vượt qua hối hận, sự trạo cử do lương tâm cắn rứt, là phải giữ giới đức, tập
sống tử tế, khôn ngoan và dịu dàng. Một người không có đạo đức hoặc sống buông
lung thì không thể nào có được các kết quả sâu sắc trong khi hành thiền.
Nghi ngờ như các du khách : Cuối cùng,
người ta có thể cảm thấy rất nản lòng do những khó khăn và phiền nhiễu
khác nhau, người ta bắt đầu nghi ngờ khả năng suy niệm của người hoặc không
chắc chắn về mục đích thật sự của thiền định. Sự hoài nghi này là một chướng
ngại tâm thần thứ năm. Điều này cũng giống như việc tìm kiếm sự phản chiếu của
chúng ta trong một bát nước bùn đục trong bóng tối. Đức Phật ví nghi ngờ như
thể bị lạc trong sa mạc, không nhận ra được các mốc điểm. Người hành thiền vượt
qua bằng cách thu thập các lời hướng dẫn rõ ràng, có một bản đồ tốt, để giúp
chúng ta thấy được các mốc điểm vi tế trong vùng đất không quen thuộc của tâm
thiền sâu kín, và từ đó biết được con đường phải đi.
Như vậy, năm triền
cái là năm hình ảnh tiêu cực, nguy hiểm đối với người thực hành thiền định.
Nhiệm vụ chính của thiền sinh là vượt qua năm triền cái để đạt được các mức độ
thiền. Kinh Trung Bộ dạy : “ cũng vậy, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo tự mình, quan
sát năm triền cái chưa xả ly, như con đường qua sa mạc, này các Tỳ kheo, cũng
như không mắc nợ, không bị bệnh tật, được ra khỏi tù, được tự do, đến được đất
bình yên.Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo quán năm triền cái khi chúng được diệt trừ ”
Đoạn trừ năm triền
cái : Theo thiền sư Henepola Gunaratana, con đường duy nhất để đoạn trừ tối hậu
các triền cái là bốn đạo siêu thế, và để đạt đến các siêu thế đạo này tất yếu
phải có sự tu tập minh sát (Vipassana), vì lẽ sự thâm nhập vào thực tánh của
mọi hiện tượng (thấy rõ tam tướng), chỉ có ở đạo tuệ siêu thế mà thôi. Thế
nhưng, muốn minh sát tuệ sanh khởi các triền cái phải được làm cho suy yếu đến
một mức nào đó. Ở đây, chúng không còn làm gián đoạn tiến trình quán chiếu. Do
đó, việc khắc phục sơ bộ các triền cái, kinh điển thường đưa ra hai giải pháp.
Một là sự đè nén các triền cái bằng cách tu tập tịnh chỉ (samatha) ở mức cận
định hoặc an chỉ định (jhana). Hai, là sự trừ diệt các triền cái trong quá
trình tu tập minh sát.
Muốn đoạn trừ sạch năm
triền cái thì các điều cần thiết là phải chứng năm thiền chi: Tứ, hỷ, lạc và
nhất tâm. Năm tâm sở này là yếu tố của
các tâm thiền sắc giới giúp chế ngự năm triền cái. Mỗi thiền chi có chức năng
và nhiệm vụ để chế ngự và đoạn trừ, mỗi triền cái tiêu biểu. Tầm chế ngự và
đoạn trừ hôn trầm thụy miên, Tứ đoạn trừ nghi, hỷ đoạn trừ sân, lạc đoạn trừ
trạo hối, và nhất tâm đoạn trừ tham dục. Nói như thế không có nghĩa là mỗi
thiền chi chỉ duy nhất đoạn trừ một triền cái tương ưng. Ngoài chức năng và
nhiệm vụ chính thì chúng còn có sự hỗ trợ nhau trong việc đoạn trừ năm triền
cái để đi đến an trú trong các tầng thiền.
Việc đoạn trừ năm
triền cái khiến cho tâm trở nên thiền tịnh, trong sáng, giống như vàng đã loại
từ các tạp chất. “ Và khi nào, Này các Tỳ kheo, tâm được giải thoát khỏi năm uế
nhiễm ấy, khi ấy tâm ấy được nhu nhuyến, dễ sử dụng, sáng chói, không bể vụn,
chơn chánh định tỉnh để đoạn diệt các lậu hoặc”.
Khi năm triền cái được
đoạn trừ, hành giả sống an lạc tự tại, làm chủ được cảm xúc, làm chủ được tâm
ý. Trung bộ kinh dạy rằng : “ Vị ấy bỏ
tham ác ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái, từ bỏ
sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng
hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng
hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ
bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa hết
tâm trạo cử, hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy thoát khỏi nghi ngờ, không phân
vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.”
Việc đoạn trừ năm
triền cái đánh dấu bước mở đầu của giải thoát, như kinh nói : “ Khi năm tiền
cái đã được đoạn trừ, vị Tỳ kheo tự mình quán thấy như người đã thoát nợ, như
người hết bịnh, như người ra khỏi tù, như người được tự do, và như đất lành an ổn”. Cùng với sự đoạn trừ
các triền cái, khả năng phát triển tâm linh của hành giả cũng được khai mở,
không còn bị hạn chế, cũng như vàng đã được tinh lọc, khỏi năm tạp chất sẽ trở
nên mềm dẽo, tinh chất, chói sáng và bền vững, có thể chạm trổ dễ dàng.
Như vậy, chúng ta đã
đưa ra một cái nhìn tổng quan về tiềm
năng của tâm trí để đạt được hạnh phúc cao nhất và tự giải thoát. Con người sẽ
bị hạn chế nhiều mặt, trí tuệ yếu kém khi bị năm triền cái làm che lấp tâm tánh,
Đức Phật bậc thầy giác ngộ, đã chỉ ra cho chúng ta nhiều phương pháp khác nhau
để hành giả ứng dụng tu tập nhằm vượt qua sự trở ngại từ chúng./.
Trích : Năm chướng
ngại trong khi hành thiền. : Thích Trung Định. VHPG số 305- 15-9-2018
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mõi mệt
(Trịnh Công Sơn)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét