GIẢI THOÁT VÀ GIẢI THOÁT NHƯ THẾ NÀO
Trong đạo Phật thường nói đến danh
từ giải thoát, mà giải thoát cái gì phần đông người theo đạo Phật chỉ nghe bằng
khái niệm chứ không rõ phải giải thoát cái gì, cho nên miệng thì nói giải thoát
nhưng tâm thì cứ buộc vào. Cho nên tu tập lâu ngày chầy tháng mà vẫn thấy còn
đau khổ buồn phiền, tại vì không biết phải giải cái gì để thoát. Mục đích chính
của đạo Phật là con đường đạt đến giác ngộ và giải thoát. Hai từ giác ngộ và giải
thoát tuy hai mà một, phải giải thoát trước rồi mới giác ngộ hay giác ngộ rồi mới
được giải thoát ? Câu trả lời là, trước
phải giác ngộ rồi mới có giải thoát. Mà giác ngộ cái gì để được giải thoát,
giác ngộ Phật tánh, chân như hay Niết bàn v.v. Nói đến giác ngộ có nhiều giai
đoạn cao thấp khác nhau tuỳ theo trình độ tu chứng. Nhưng ở
đây nói đến giác ngộ ở giai đoạn thấp để có giải thoát thật sự trong cuộc sống
đau khổ thường hằng của kiếp nhân sinh. Đó là giác ngộ “vô thường, khổ, không “
Nếu ta giác ngộ cuộc đời mọi sự mọi vật, tâm lý vật lý đều vô thường, đều là khổ,
đều là không, thì ta sẽ không bị tham, sân, si, chấp trước làm chúng ta khổ. Từ
khởi thuỷ cho đến khi cha mẹ sinh ra ta cho đến nay, ta đã huân
tập vào trong tâm thức không biết bao nhiêu ý niệm, tư tưởng, tập khí. Những ý
niệm, tư tưởng, tập khí này nó chi phối ràng buộc chúng ta, sai khiến chúng ta
tham lam, sân hận, ganh ghét thù hiềm, phải trái, hơn thua, được mất v.v. không
bao giờ cho chúng ta được tự do là vậy. Để làm sáng tỏ hai từ giải thoát chúng
ta mượn câu chuyện của Tư Mã Ý thù hận Khổng Minh trong truyện Tam Quốc Chí thì
sẽ rõ hơn.
Trong truyện Tam Quốc Chỉ kể như
vầy, một ngày nọ Tư Mã Ý đi vào đất Thục để tiếp quản đất Ba Thục của Lưu Bị và
Khổng Minh khi ông đánh thắng quân Ngô. Khi đi vào đất Thục ông thấy lăng mộ của
Khổng Minh. Tư Mã Ý và Khổng Minh khi còn sinh tiền là hai kẻ thù không đội trời
chung, cho nên Tư Mã Ý rất thù ghét và
căm tức Khổng Minh, cho nên ông qua đất Thục thấy lăng mộ Khổng Minh ông đi xăm
xở vào định đập phá lăng mộ Khổng Minh, để trừ cái hận ngày xưa ông luôn luôn bị
thua, ông bước vào lăng mộ liền té cái rập nằm ngửa, chưa kịp
phá thì đã té nhào đầu. Ông ngước lên lăng mộ nhìn thấy Khổng Minh viết bốn chữ
“Giải y nhi thoát ”, tức là mở áo ra thì thoát. Vì dưới mặt đất Khổng Minh cho
chôn một khối nam châm to, nên Tư Mã Ý bước vào cái áo giáp sắt Tư Mã Ý bị nam châm hút liền té nhào, nhìn thấy bốn chữ “giải y nhi thoát” Tư Mã Ý liền cởi áo ra và
chạy thoát chứ không còn ý tưởng phá lăng mộ Khổng minh nữa.
Câu chuyện này xuyên qua Phật
giáo, chúng ta cũng phải giải y nhi
thoát, có giải mới thoát được, giải có nghĩa là cởi bỏ, nếu cứ khư khư không cởi
bỏ thì làm sao thoát được. Chữ giải ở trong câu chuyện này đồng với chữ giác ngộ
trong việc tu tập của người tu học. Chúng ta từ khi sanh ra cho đến lớn lên,
chúng ta đã huân tập không biết bao nhiêu là ý niệm, tư tưởng, những ý niệm tư
tưởng này nó ràng buộc chúng ta không thoát được, cũng như chiếc áo giáp vậy.
Những ý tưởng đúng, sai, phải trái, được mất, hơn thua v.v. Giải là cởi, thoát
là ra khỏi vị trí chúng ta đang đứng, ra khỏi vị trí lòng tham ái, si mê, sân hận.
Chúng ta dịch chuyển vị trí chúng ta đang đứng thì gọi là giải thoát, mà muốn
giải thoát thì phải cởi ra, giải ra, cởi ra những gì chúng ta đang huân tập. Ví
như con gà trong võ trứng, nó ra khỏi võ thì thấy bầu trời mênh mông. Chúng ta
chưa được giải thoát, mà đang đi trên hành trình giải thoát, muốn giải thoát
chúng ta phải xả bỏ những ý tưởng, phải trái, hơn thua, thương yêu, thù ghét.
Ta tự tạo ra để rồi tự ràng buộc lấy. “Khổ hải thao thao, nghiệp tự chiêu ”, những
nổi khổ niềm đau chúng ta tự mời nó vào, chứ không phải tự nó vào, rồi tự chấp
lấy làm cái Tôi và cái Của Tôi để rồi tự làm khổ mình. Ví dụ chúng ta ghét một
ai đó, chúng ta luôn luôn nghỉ về người đó, càng nghỉ về người đó chúng ta càng
căm tức họ, càng căm tức ta họ càng không ăn không ngủ được, ta tự hành hạ
mình, còn người kia ta tức họ, họ tỉnh bơ vui đùa không hề hay biết gì về mình
cả. Chúng ta thấy cái sân hận căm tức của mình thật vô duyên và lạc nhách thế
mà con người ai cũng đều mang cái bệnh muôn thuở này.
Mỗi một con người có hai loại chủng tử mà khó cởi ra, đó là Bản hữu chủng
tử và Tân huân chúng tử. Bản hữu chủng tử là hạt giống cũ, Tân huân chủng tử là
hạt giống mới. Hạt giống mới nó tiếp nhận và thừa kế từ hạt giống cũ để rồi nó
hình thành nên một cái đời sống mới, đó là cái Bản ngã, hay là cái Ta, cái Tôi
mà chúng ta thường đối diện với mọi người, Tôi và Anh, Nó v.v… Hai loại chủng tử
này khó mà cởi nó ra được, cho nên tu cho được giải thoát là cả một vấn đề nan
giải.
Chúng ta đang sống trong bùn lầy của cõi dục, cái gì cũng muốn, cái gì
cũng ưa, Muốn ưa, ganh ghét, thù hận nó
dẫn dắt chúng ta đi trong con đường sanh tử khổ đau muôn đời kiếp kiếp khó mà
ra được. Vì thế cho nên phải học mới có sức hiểu để tu, nếu tu mà không hiểu
thì như người đi ban đêm không có đèn đuốc thì lạc đường là lẽ tất nhiên. Học
và tu là hai việc song hành, tức là tri
hành hợp nhất là hiểu biết và thực hành là điều người con Phật phải làm, chứ
không phải chỉ dừng nơi lễ lạy tụng niệm mà có giải thoát có an lạc đâu../.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét