QUÁN CHIẾU VỀ CÁI CHẾT
Hạnh phúc và khổ đau
là hai mặt đối lập nhau trong cuộc đời con người, từ xa xưa đến nay, các nhà
tôn giáo, các triết gia, các nhà khoa học luôn đi tìm cho mình và mọi người con
đường hạnh phúc và tránh con đường khổ đau. Tâm lý chung con người là muốn cầu
an vui hạnh phúc và xa lìa khổ đau. Nhưng việc tránh khổ cầu an chưa có một vị
giáo chủ tôn giáo nào đưa ra phương pháp cụ thể và thiết thực, cho đến các
triết gia, các khoa học gia cũng vậy. Họ chỉ có đem lại những nổi khổ niềm đau
nhiều hơn là an lạc,và làm tâm trí rối loạn hơn là an tịnh. Những lý thuyết và
việc làm của họ chưa thực sự tìm ra con đường chấm dứt khổ đau cho con người
một cách tuyệt đối hoàn hảo. Chỉ có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người duy nhất
tìm ra cho nhân loại con đường thoát khổ được an một cách tuyệt đối mà thôi.
Con người ai cũng
ham sống sợ chết, cho đến các loài cầm thú cũng vậy, đều cùng chung tâm trạng
ưa sống sợ chết. Cho nên sanh, già, bệnh, chết là bốn sự thật khổ đau mà con
người muôn đời phải tuân chịu, không một ai tránh khỏi, không một ai trường
sinh bất tử. Nổi sợ chết là nổi sợ lớn nhất của con người không ai qua mặt thần
chết. Vậy chết là luật công bằng nhất mà
ai cũng phải chết, dù có sợ hay không sợ cái chết là cái rất bình đẳng của mọi
người và chúng sanh, khỏi phải đòi hỏi công bằng.
Người đến với đạo
Phật là người tìm cho mình cách sống bất tử không sợ chết, và nếu có chết chỉ
chết một lần của thân tứ đại này thôi. Vì người tu tập theo Phật giáo, y theo
lời Phật dạy thì sẽ đạt được cái lý vô sanh, chứng nhập được tự tánh không sanh
không diệt, trừ được tham dục chấp thủ thì ra khỏi con đường sống chết khổ đau,
không còn sống trong vòng mê muội, chết trong hoài nghi nữa. Đức Phật đã dạy cho dân chúng Alavi một bài
học về cái chết.
Một hôm Đức Phật đến
Alavi, dân chúng Alavi rất hạnh phúc vui mừng khi được Phật đến xứ sở họ. Dân
chúng Alavi thỉnh Phật thọ trai. Thọ trai xong, Đức Phật nói một bài pháp ngắn
về cái chết. Đức Phật nói : “ Này các
người hãy quán niệm về cái chết, các người hãy tự nhủ rằng : Đời sống của ta
mong manh, cái chết của ta là điều cố nhiên, chắc chắn ta sẽ chết, cái chết sẽ
chấm dứt đời ta. Đời sống không cố định, cố định là cái chết. Ai không quán niệm về cái chết, sẽ sợ hãi khi
giờ lâm chung đến, và sẽ chết trong sợ hãi kinh hoàng, như một người đi đường
gặp rắn, không có gậy trong tay, run rẫy dường nào !
Tại làng Alavi cô bé
con nhà thợ dệt năm 13 tuổi đã được nghe Đức Phật chỉ dạy về cái chết. Nay
duyên lành Phật lại đến làng mình thuyết pháp, cô bé chủng bị sẳn sàng để tham
dự, mặc dù cha cô bé bảo phải hoàn thành các thoi chỉ sợi để kịp giao hàng cho
khách. Nhưng cô quyết tâm cao độ không phụ lời cha dặn và vẫn hoàn thành ý
nguyện của mình là đi gặp Phật. Năm nay
cô bé 16 tuổi con nhà thợ dệt đến gặp Phật nghe pháp. Khi cô bé đến diện kiến
trước Đức Phật, Phật mới hỏi cô bé bốn
câu hỏi. Đức phật đã thấu rõ tâm ý của cô bé bèn hỏi rằng :
Con từ đâu đến đây ?
Bạch Thế Tôn con không biết,
Con sẽ đi về đâu ?
Bạch Thế Tôn con không biết,
Con biết hay không biết ?
Bạch Thế Tôn, con biết
Con không biết phải chăng ?
Bạch Thế Tôn, con không biết.
Trong 4 câu hỏi này chỉ có 2 từ KHÔNG và BIẾT. Không ở đây là
không biết từ đâu sanh ra, chết đi về đâu, và chết lúc nào. Còn Biết là biết mình trước sau gì cũng phải chết
.
Trước sự thắc mắc
của thính chúng, Ngài hỏi cô bé.
- Này con ! khi Ta hỏi con từ đâu đến, vì sao con trả lời
không biết.
- Bạch Thế Tôn ! Ngài
cũng biết rằng con từ nhà cha con, là con của người thợ dệt đến đây. Vì thế khi
Ngài hỏi con từ đâu đến, con hiểu rằng ý của câu ấy là con từ đâu sanh ra đây.
Nhưng con chẳng biết con từ đâu sanh đến nơi nầy.
-Ngài hỏi tiếp : Khi Ta hỏi con đi về đâu, vì sao con trả lời
không biết ?
-Bạch Thế Tôn ! Ngài
cũng biết con đến từ xưởng dệt nhà cha con với giỏ thoi trên tay. Nên khi Ngài
hỏi con đi đâu, con hiểu ý câu ấy là khi rời nơi đây con tái sanh về đâu. Nhưng
đối với con, sau khi chết con chưa biết sanh về đâu.
-Khi Ta hỏi, con biết
hay không, vì sao con trả lời con biết ?
-Bạch Thế Tôn ! vì con biết rằng chắc chắn con
sẽ chết, nên con đáp như thế.
- Vì sao Ta hỏi con không biết hay chăng, con trả lời không
biết ?
- Bạch Thế Tôn ! điều con biết chắc chắn là con sẽ chết, nhưng
chết vào lúc nào, vào ban đêm hay ban ngày, buổi sáng hay buổi trưa, khi nào
con không thể biết, nên con trả lời không biết.
Đức Phật dạy thính
chúng rằng: Với người không có tuệ nhãn, họ đui mù, chỉ khi nào người có tuệ
nhãn mới thấy được điều này, rồi Ngài nói bài kệ :
Đời này thật mù quáng
Ít kẻ thấy rõ ràng
Như chim thoát khỏi
lưới
Rất ít đi thiên giới
Quả thật câu chuyện
của cô bé cho chúng ta thấm thía ý nghĩa
của từng lời giải đáp, bận lòng chi quá khứ từ đâu đến và lo lắng chi ta chết
về đâu. Sự có mặt của ta từ vô thủy đến vô chung, không có điểm khởi nguồn và
kết thúc, cuộc sống chỉ có thực tại là bây giờ, ở đây và một sự thật hiển
nhiên, ai rồi cũng sẽ chết. Tuy nhiên, chết lúc nào ở đâu và chết như thế nào
cũng là điều không quan trọng nữa, bởi lẽ chính cái hiện tại mới là yếu tố
quyết định con đường tái sanh. Nhưng cũng vì thế gian này “thật mù quáng” không
tuệ nhãn cho nên cứ mãi quẩn quanh trong bể khổ trầm luân. Chính sự suy niệm về
những điều vô nghĩa trong cuộc sống làm tâm trí họ rối ren, mù quáng, tức như
chim tung lưới chỉ biết tung cánh bay trong phương trời vô định, không biết
đích điểm là đâu. Con người không ai là bất tử trường sanh, suy niệm về lẽ thật
cuộc đời, sanh, già, bệnh, chết, luôn mang ý nghĩa thiết thực. Một khi trong
tâm luôn nghĩ về cái chết sẽ đến, lẽ tất nhiên chúng ta sẽ sống có ý nghĩa từng
ngày chánh niệm trong từng phút từng giây và quán chiếu tu tập trong từng lời
dạy của Đức Phật, đây chính là nền tảng cho hạnh phúc hiện tại và sự chứng đắc
giải thoát trong tương lai..
Mỗi ngày qua là mạng
sống con người giảm dần, giống như con bò sắp bị giết, con bò được dắt từ chuồng trại đến lò mỗ, mỗi bước
chân giơ lên là mỗi bước gần đến bị giết, gần đến cái chết. Cũng vậy, đời sống
con người cũng thế, như con bò sắp bị giết, con người thật nhỏ bé so với vũ trụ
bao la, không đáng kể, nhưng lại có nhiều đau khổ, nhiều phiền muộn, nhiều ưu
não. Vì thế hãy giác ngộ, hãy làm những điều lành, hãy sống phạm hạnh, với
người đã sanh không có bất tử. Chính vì
thế, với đạo Phật vấn đề trọng tâm không phải là vũ trụ thế giới mà là con
người. Mục đích của Đức Phật dạy là đoạn tận khổ đau đem lại an lạc hạnh phúc
cho con người. Tính thiết thực hiện tại của Phật giáo không phải ở giáo lý mà
còn ở thái độ và hành động của người con Phật, đó là lộ trình tu tập của chính
bản thân mỗi người.
Đức Phật nhấn mạnh
sự nổi lực của tự thân tu tập là điều quan trọng, là điều kiện cần thiết để đi
đến giải thoát an lạc Niết bàn. Vấn đề
giải thoát giác ngộ là do sự nổ lực của mỗi người chứ không phải cầu xin mà
được. không một đấng thiêng liêng nào ban cho chúng ta sự giác ngộ, mà chính tự
thân mỗi con người phải nổ lực để giác ngộ. Đức Phật dạy rằng : “ Hãy tự mình làm ngọn đèn cho chính mình,
hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một cái gì khác, dùng chánh
pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì
khác”.
Đức Phật đã xác định cầu xin và ước vọng không có lợi ích
gì. Ngài nêu rõ: “ Nếu có người làm 10
điều ác hạnh, rồi một quần chúng đông đảo đến cầu xin, cầu khẩn chắp tay mong
rằng, người ấy sẽ được sanh thiện thú, thiên giới. Sự cầu khẩn như vậy vô ích.
Vì người ấy làm 10 điều ác hạnh sẽ bị rơi vào địa ngục. Như một người quăng một
tảng đá vào hồ nước, rồi một số đông đảo người đến cầu xin, cầu khẩn chấp tay
cầu rằng : Tảng đá ấy sẽ được nổi lên,
sự cầu khẩn như vậy là vô ích. Vì tảng đá ấy với sức nặng của nó không thể nổi
lên, không thể trôi vào bờ như lời cầu xin của quần chúng ấy. ”
Các phương pháp tu
tập của đạo Phật, chính là những phương pháp giúp cho con người trở về với nội
tâm mình để giải quyết một cách căn bản mọi ưu tư và bất an của nội tâm. Khổ
đau chỉ có mặt trong hiện tại, do đó quả quyết
khổ đau cũng được bắt đầu từ trong giờ phút hiện tại. Đức Phật dạy : “
Này các Tỳ kheo, có một con đường độc nhất làm cho chúng sanh thanh tịnh, vượt
qua ưu sầu, đoạn trừ hết khổ đau, thành tựu chánh lý, chứng đắc Niết bàn. Đó là
Tứ niệm xứ, phương pháp tu tập Tứ niệm xứ là con đường trở về với chính mình,
quán chiếu tự thân, tu tập tự mình làm hòn đảo của chính mình. Như vậy tứ niệm
xứ, là một nếp sống giúp cho chúng sanh được thanh tịnh trong sạch, khỏi các
cấu uế. Với nếp sống như vậy, vị hành giả vượt khỏi sầu bi, chấm dứt ưu khổ,
tức sống an lạc hạnh phúc trong chánh pháp. Với nếp sống hỷ lạc định tĩnh, vị
hành giả phát triển trí tuệ, trí tuệ được chính lý duyên sanh, duyên diệt của
các pháp và cuối cùng chứng ngộ Niết bàn.
(Trích
:Hạnh phúc thực tại giữa thế giới vô thường : Huỳnh Thị Cẩm Nhung- VHPG số 305-
15-9-2018)
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét