NĂM THIỀN CHI
Trong khi thực hành thiền định, hành giả bắt đầu điều phục
thân và điều phục tâm. Lúc này, tâm bắt đầu đi vào trạng thái thiền định dẫn từ
cạn đến sâu qua năm cấp độ gọi là năm thiền chi, đó là : tầm, tứ, hỷ, lạc và
nhất tâm. Năm tâm sở này là những yếu tố của các tâm thiền sắc giới giúp chế
ngự năm triền cái. Năm thiền chi có mặt trong các tầng thiền. Ở sơ thiền, ly
dục, ly các bất thiện pháp, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm có tứ.
Qua nhị thiền, từ bỏ tầm và tứ còn lại hỷ và lạc. Ở tam thiền, do ly hỷ trú xả,
thân cảm sự lạc thọ gọi là xả niệm lạc trú. Ơ tứ thiền, tâm hành giả có thể đi
thẳng vào định không cần qua tầm, tứ, hỷ, lạc chỉ còn chi thiền nhất tâm.
Trong thuật ngữ Pali,
danh từ và động từ của nó có ý nghĩa gốc rễ là :
1/ Để suy nghiệm,
thiền định. 2/ để tìm kiếm. 3/để đốt
cháy. Những thiền chi được gọi như vậy vì chúng tham dự chặt chẽ với đối tượng
của tâm, và vì chúng đốt cháy những trạng thái của tâm không có lợi cho sự tập
trung để đi vào thiền định. Trong các tác phẩm luận giải Phật học, mỗi nhân tố
thiền chi sẽ chế ngự được một triền cái cụ thể. Ý nghĩa của một thiền chi được
trình bày như sau :
Tầm (vitakka): có nghĩa là “tư duy” thường xuất hiện trong kinh cùng với một chữ
khác là vicara (tứ) với nghĩa là “di chuyển ”. Hai từ này đi chung biểu thị
hai phương diện có liên hệ với nhau nhưng khác loại của tiến trình tâm. Vitakka
được dịch là “tầm” hoặc đơn giản là “tư
duy”, còn vicara là “tứ”. Thuật ngữ takka có nghĩa đen là “suy nghĩ”, tiền tố
“vi” cung cấp cho một cảm giác mạnh, vì vậy vitakka có nghĩa là suy nghĩ rõ rệt
hoặc quyết định.
Tầm là tâm sở có phận
sự đánh thức tâm chú hướng đến đề mục thiền định. Giống như con bướm tìm thấy
một bông hoa và hăng hái bay về hướng đó. Nhưng tâm cứ bỏ rơi đối tượng do trầm
trệ, giải đãi, giống như con bướm chưa tới được cành hoa đã lười biếng bỏ cuộc,
tức là tầm chưa đủ tinh cần nổ lực để vượt qua trạng thái buông xuôi tiêu cực.
Do vậy khi tầm có đủ lực nhất hướng đến đối tượng thì hôn trầm- thụy miên bị
chế ngự.
Tứ (vicara) : Từ vicara thường có nghĩa là kiểm tra. Nhưng ở
đây nó biểu thị sự áp dụng bền vững của tâm đối với sự vật. Trong khi tầm là sự
chỉ đạo của tâm và các tâm sở của nó trên các đối tượng, thì tứ là sự tiếp tục
thi hành nhiệm vụ của tâm trên đối tượng. Tứ là tâm sở có phận sự giữ tâm đứng
vững trên đề mục thiền định. Giống như khi con bướm đã bay đến đóa hoa liền tìm
cách giữ thăng bằng để đậu lại trên đóa hoa đó. Nhưng nếu tâm chưa đứng yên
trên đối tượng do còn lưỡng lự bất quyết, giống như con bướm tuy đã đậu xuống
mà vẫn chưa bám chắc lại hẳn nên còn chớp chớp đôi cánh chực bay, tức là tứ
chưa vững để dừng lại trên đề mục. Nhưng khi tứ đã vững thì không còn trạng
thái phân vân do dự nữa.
Các bản chú giải,
giải thích rất kỹ những dị biệt giữa tầm và tứ bằng cách mô tả tầm như sự xúc
chạm đầu tiên của tâm trên đối tượng, tức giai đoạn thô và khởi đầu của tư duy
cũng như đánh lên một tiếng chuông, trong khi tứ như hành vi neo tâm trên đối
tượng, giai đoạn tạo sức ép liên tục và vi tế hơn này có thể ví như tiếng ngân
của chuông. Luân sư Phật Âm đưa ra năm hình ảnh để minh họa cho sự tương quan
giữ tầm và tứ.
1/ Tầm ví như sự chuyển động của con chim khi vỗ cánh bay vào
hư không, tứ như sự di chuyển của nó qua hư không một cách thung dung, uyển
chuyển với đôi cánh dang rộng.
2/ Tầm có thể được so sánh với việc bay đến đóa hoa của con
ong, tứ như khi nó bay vo ve quanh đóa hoa ấy.
3/ Tầm giống như bàn tay nắm chắc một cái đĩa kim loại hoen ố
cần phải chùi bóng, tứ như tay kia chà đĩa với một miếng giẻ tẩm dầu và bột.
4/ Tầm như bàn tay nâng của người thợ gốm khi anh ta đang làm
một cái bình, tứ như tay kia nắn tới nắn lui.
5/ Tầm như mũi kim của chiếc compa cắm chắc vào giữa khi người ta muốn vẽ một vòng tròn, tứ như
mũi kim xoay chung quanh.
Những ví dụ này cho ta
thấy rõ, rằng mặc dù thường đi chung với nhau, tầm và tứ vẫn thực hiện những
công việc khác nhau. Tầm hưởng được một quyền ưu tiên hơn tứ về chức năng. Tầm
đem tâm đến đối tượng, tứ gắn chặt và neo chắc nó ở đấy. Tầm tập trung tâm trên
đối tượng, tứ xem xét và khảo sát kỹ những gì được tập trung vào đó. Tầm đem
lại một sự sâu lắng của định nhờ thường xuyên đưa tâm trở lại với cùng đối tượng,
tứ duy trì sự định tâm đã thành tựu bằng cách giữ cho tâm neo chắc trên đối
tượng đó. Trong sự liên hợp này, tầm-tứ là hai yếu tố cho sự thành tựu và ổn
định của sơ thiền.
Hỷ (piti) Chi thiền thứ ba có mặt trong sơ thiền là hỷ. Trong
kinh, đôi khi hỷ được nói là khởi sanh từ một yếu tố khác theo thứ tự liên hệ
gọi là (hân hoan). Một trạng thái xuất hiện cùng với sự đoạn trừ năm triền cái.
Khi hành giả quán xét thấy năm triền cái đã được từ bỏ trong tự thân, “hân hoan
sẽ khởi lên trong vị ấy; nhờ hân hoan như vậy, hỷ sẽ sanh, và khi có hỷ, thân
vị ấy trở nên khinh an”.
Nó giống như khi con
bướm đang hứng thú thưởng thức mật hoa; nhưng nếu tâm chưa phát sanh hỷ do còn
căng thẳng hay cố gắng quá mức, giống như con bướm chưa hút được mật nên chưa
vừa ý. Khi tâm đã tìm thấy sự thích thú hoan hỷ trên đề mục thiền định thì sân
mới được chế ngự.
Lạc (sukha) : Thiền chi kế tiếp là sukha- lạc. Chữ Sukha được
dùng như một danh từ với nghĩa “lạc”, “dễ chịu”, “hạnh phúc” hay sự “hài lòng”,
và vừa như một tĩnh từ với nghĩa “trạng
thái an lạc”, “trạng thái dễ chịu”. Như một thiền chi của sơ thiền, lạc biểu
thị cảm giác dễ chịu. Từ sukha được định nghĩa chính xác theo nghĩa này trong
phân phân tích về sơ thiền của bộ Phân tích: “Ở đây, thế nào là lạc, Sự sảng khoái về tâm, sự dễ chịu thuộc về
tâm, cảm giác sảng khoái và dễ chịu do tâm xúc sanh, trạng thái cảm thọ sảng
khoái dễ chịu sanh từ tâm xúc. Đây gọi là lạc”. Là tâm sở có trạng thái bình
yên, an ổn và thỏa mãn trên đề mục thiền định, giống như con bướm đã hút mật
đầy đủ, không còn bồn chồn lo lắng hay tìm kiếm lăng xăng nữa, vì thế lạc chế
ngự được trạo hối.
Nhất tâm (ekaggata) hay định, là trạng thái an chỉ, bất động
trên đề mục, giống như con bướm đã no đủ nằm yên ngơi nghỉ trên đóa hoa, không
ham muốn gì nữa, nhờ vậy tham dục được chế ngự.
Là một thiền chi, nhất
tâm luôn luôn hướng đến một đối tượng
thiện. Nó làm công việc ngăn ngừa những ảnh hưởng bất thiện, đặc biệt là dục
tham triền cái. Khi các triền cái vắng mặt, nhất tâm tích tụ một sức mạnh đặc
biệt trong bậc thiền dựa trên nổ lực tập trung đã được duy trì trước đó. Như
vậy, mỗi thiền chi có chức năng và nhiệm vụ để chế ngự và đoạn trừ mỗi triền
cái tiêu biểu. Tầm chế ngự và đoạn trừ hôn trầm-thụy miên; tứ đoạn trừ nghi; hỷ
đoạn trừ sân; lạc đoạn trừ trạo hối; và nhất tâm đoạn trừ tham dục. Nói như thế
không có nghĩa là mỗi thiền chi chỉ duy nhất đoạn trừ mỗi triền cái tương ứng.
Ngoài chức năng và nhiệm vụ chính thì chúng còn có sự hỗ trợ nhau trong việc
đoạn trừ năm triền cái.
Bên cạnh chức năng và
nhiệm vụ chính, các thiền chi cũng cùng làm nhân làm duyên để hỗ trợ nhau trong
việc đoạn trừ năm triền cái. Nhiệm vụ tạo ổn định của nó được tăng cường nhờ sự
cộng tác của các thiền chi khác- tức nhờ “tầm” nhấn tâm vào đối tượng, nhờ “tứ”
giữ cho nó neo chắc vào ở đó, nhờ “hỷ” và “lạc” kích thích sự thích thú và thỏa
mãn của nó trong đối tượng. Bởi vì nhất tâm trong thiền hướng dẫn các yếu tố
khác đến công việc hợp nhất này nên nó được gọi là “định căn”. Bởi vì nó duy
trì một sức mạnh ổn định khiến các ảnh hưởng phân tán khác không dễ gì vượt qua
được nó gọi là “định lực”. Nó đưa tâm đến trạng thái tịnh chỉ, giúp hoàn thiện
các căn khác, đồng thời tác thành như một nền tảng cho tuệ giải thoát.
Khi hành giả tinh tấn
hướng tâm tiếp cận đối tượng, không quá cố gắng, cũng không lơ là, chỉ cần vừa
đủ để tâm vượt qua trạng thái hôn trầm thụy miên, không còn lười biếng giải đãi
thì có thể chú hướng vững vàng về phía đối tượng ấy, đó là trạng thái tầm. Khi
đã không còn lười biếng bỏ rơi đối tượng, tâm bắt đầu tìm cách áp sát trên đối
tượng, tâm hành giả đã lấy lại được thăng bằng, không nghi hoặc, không phân vân
do dự nữa, đó là trạng thái tứ. Nhờ tâm thăng bằng, không nghi hoặc đã cảm giác
được sự vui thích, hứng thú trên đối tượng, không còn bực bội, chán nản hay sân
hận nữa, đó là trạng thái hỷ. Sự hoan hỷ, phân khởi này lắng dịu dần, để lại
một sự bình an, tĩnh lặng, không còn một gợn sóng dao động bất an, đó là trạng
thái lạc của thiền. Đến đây tâm đã có thể an trú, tĩnh chỉ, nhất tâm và hoàn
toàn quân bình (xả), không còn khởi lên một tham muốn nào đối với ngũ dục. Đó là trạng thái nhất tâm
hay an chỉ định. Với những trải nghiệm trên, hành giả đã chứng sơ thiền sắc
giới, tâm vị ấy có đủ năm thiền chi : tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm.
Không có chi phần nào
trong số này tách riêng khỏi nhóm mà có thể tạo thành sơ thiền. Muốn cho thiền
sanh, cả năm chi phải cùng có mặt và tác thành những nhiệm vụ đặc biệt của
chúng trong bậc thiền như diệt trừ các triền cái đối nghịch với tự thân chúng
và đem tâm vào an trú trong đối tượng. Năm hiện tượng tâm lý hay năm danh pháp
chỉ được gọi là năm thiền chi nhờ vào những nhiệm vụ đặc biệt này. Chẳng hạn,
tầm bình thường, nếu không phản công hôn trầm-thụy miên, không phải là một
thiền chi. Hôn trầm-thụy miên và tầm, mặc dù có thể cùng tồn tại trong nhiều
trạng thái tâm bình thường, nhưng khi tầm được phát triển để hướng đến một
thiền chứng, nó trục xuất và loại trừ hôn trầm-thụy miên triền cái. Do đó, tầm
trong thiền chi có một tầm cỡ cao hơn và một nhiệm vụ chuyên biệt hỗ trợ cho
định. Tương tự, đối với hoài nghi và tứ. Tứ dù vẫn có thể hiện trong tâm lúc
đang trong trạng thái hoài nghi, song bao lâu nghi còn có mặt, tứ không thể
thành một thiền chi. Khi tứ được định hướng đến thiền, lúc đó nó đóng cửa không
cho hoài nghi vào. Đối với các chi phần khác cũng áp dụng như vậy. Khi tâm còn
bị ám ảnh bởi các triền cái, dầu cho hỷ, lạc và nhất tâm có thể trở nên mạnh
đến thế nào chăng nữa, chúng cũng không tạo thành sơ thiền cho đến khi các
triền cái được trừ diệt.
Để cho một trạng thái
tâm có được tính chất như một tâm sơ thiền, năm thiền chi không những phải có
khả năng ngăn chận và bít năm triền cái, mà chúng còn phải có thể nhất tâm vào đối tượng với cường độ của sự
tập trung toàn triệt. Nếu các thiền chi chỉ có mặt một phần, nếu tất cả đều có
mặt nhưng không đủ sức mạnh để loại trừ triền cái, nếu chúng có thể loại trừ các
triền cái nhưng không có khả năng đem tâm vào an trú, tâm ấy không phải là tâm
sơ thiền. Song, nếu chúng khởi lên cùng nhau và thực hiện những nhiệm vụ riêng
của chúng trong việc tạo ra an chỉ, sơ thiền sẽ khởi lên viên mãn với năm chi
phần của nó.
Như vậy, năn thiền chi
là năm tâm sở vô cùng cần thiết nhằm đoạn trừ năm triền cái để đi vào các tầng
thiền. Năm yếu tố này thôi thúc tâm chú hướng, kích thích và dần dần an trú trên đối tượng để đi vào các
trạng thái định sâu hơn. Năm thiền chi như năm cây nêm, nêm vào khúc gỗ để tống
năm cái ngạt nằm trong khúc gỗ. Nếu không nhờ cây nêm thì năm cái ngạt sẽ nằm
yên trong khúc gỗ mà người thợ mộc khó lấy ra được. Đây được gọi là phương pháp
thay thế loại trừ. Dùng các thiện pháp để loại trừ các bất thiện pháp trong
tâm. Ở đây, cần phải có sự hỗ trợ của chi phần tinh tấn. Khi các thiện pháp đủ
mạnh thì đánh bật các bất thiện pháp một cách hoàn toàn. Năm triền chi là
phương thuốc đặc trị năm triền cái. Không thể có một pháp nào khác hơn, hữu
hiệu hơn để loại trừ năm chướng ngại này. Thành ra, thiền giả khi hành thiền
dùng năm thiền chi đúng pháp, thì việc hành thiền sẽ có kết quả tốt đẹp ./.
Trích : Năm thiền chi : Thích Trung
Định- VHPG số 306- 1-10-2018
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét