TỰ ÁI VÀ HIỂU LẦM
Chuyện tự ái và hiểu lầm
là chuyện cơm bửa trong cuộc sống hằng ngày của con người. Mỗi người ai
cũng đều có tự ái theo cách riêng của mình, không tự ái nào giống tự ái nào. Mà
hễ tự ái khởi lên đều nguy hiểm và gây hiểu lầm dẫn đến chết người, hoặc gây
chia rẻ đấu tranh, thị phi v.v.. hậu quả là mất đoàn kết mọi sự bất thành. Cho
nên chúng ta đừng xem thường tự ái xảy
ra hằng ngày với ta.
Thiếu phụ Nam Xương
ngày xưa là một điển hình về câu chuyện tự ái mà phải quyên sinh nơi dòng sông
để rồi thiệt mạng, gây cảm xúc đau đớn cho mọi người.
Vào thời vua Lý Thánh
Tông (1054-1072) ở huyện Nam Xương, (nay thuộc huyện Lý Nhân) tỉnh Hà Nam, miền
Bắc có cô thiếu nữ nết na xinh đẹp, tên
là Vũ Thị Thiết lấy chồng tên là Trương Sinh, người cùng thôn Vũ Điện. Hai
người được cha mẹ hai bên chấp thuận thành nên duyên vợ chồng. Hai vợ chồng
sống chung với nhau không được bao lâu, chàng Trương phải theo tiếng gọi thiêng
liêng của tổ quốc, lên đường nhập ngũ tòng quân, thực hiện nghĩa vụ cao cả bảo
vệ đất nước, và để lại người vợ trẻ có mang hơn hai tháng ở nhà.
Sau ba năm nghĩa vụ
hết hạn, chàng Trương trở về, và đứa con cũng đã hơn hai tuổi. Không có niềm
vui sướng nào bằng khi gia đình đoàn tụ. Vừa đặt chân về đến nhà, chàng Trương có cảm giác buồn vui
lẫn lộn. Nỗi buồn lớn nhất của chàng là mất mẹ khi chàng còn trong quân ngũ và
niềm vui sướng nhất là được về sum họp với gia đình sau bao nhiêu năm xa cách.
Chàng Trương liền bảo với vợ đi chợ mua phẩm vật và nhang đèn về để làm mâm cơm cúng tạ ông bà tổ tiên và vong linh người mẹ.
Trong khi người vợ đi
chợ mua đồ, người chồng ở nhà giữ con, chơi với đứa con, anh ta tập làm quen
với đứa bé nhưng đứa bé hai mắt nó nhìn thao tháo lấy làm lạ lùng, không chút
thân thiện với chàng Trương. Thấy vậy mà chẳng nói gì, anh nghĩ chắc nó vừa
thấy vừa lạ nên nó sợ. Một lúc đứa bé thấy
vắng mẹ, nó òa lên khóc kêu mẹ ! Chàng Trương thấy con khóc liền đến dỗ con.
Lần đầu tiên trong đời, đứa bé được nghe chàng ta gọi là “con” và xưng là “bố”.
Thôi, nín đi con,
đừng khóc tí nữa mẹ về. Nào đứng lên con, đi chơi với bố, mẹ sắp về đó ..
Đứa bé giương đôi mắt nhìn người bố ngơ ngác.
Trong đầu nó nghĩ có một người bố đen đen, đêm nào cũng trở về với hai mẹ con
nó kia mà. Người bố ấy không bao giờ nói, nhưng lần nào mẹ nó cũng bảo đấy là
bố nó thật. Nó đã tin theo và trả lời với chàng Trương rằng : “ Ô ông
không phải là bố của tôi. Bố tôi đến tối
mới về lận ! ”.
Chàng Trương hỏi, Ai
bảo thế ?
Đứa bé giương đôi mắt đáp : Mẹ nói thế !
Cơn cảm xúc tức giận nổi lên trong lòng chàng Trương, máu dồn
lên mặt, hai tai ù đặc, tay chân run rẫy, nét mặt hằm hằm, cộc cằn thô lỗ. Khi
người vợ đi chợ về chàng Trương không thèm nhìn tới vợ, không nói chuyện với
vợ, Anh lạnh nhạt vô cùng.
Nàng thiếu phụ Nam
Xương buồn bã và đau xót vô cùng. Nàng không hiểu tại sao thái độ của chồng
thay đổi như thế từ khi nàng đi chợ mua sắm về Nàng thầm lặng chịu đau khổ một
mình suốt một thời gian. Chị nấu cơm, anh ấy không ăn, Anh bỏ nhà đi la cà ở
các quán rượu tới khuya mới về. Ngày nào cũng vậy. Chị chịu không nổi. Cuối
cùng, nàng đi tìm tới cái chết là gieo mình xuống dòng sông. Nghe tin vợ chết
anh mới trở về nhà.
Vợ mất rồi, mỗi tối
anh phải dỗ con, đêm đến căn nhà tối om, anh đi tìm đèn châm lửa, vừa thắp cây
đèn dầu cho sáng nhà, cái bóng của anh cũng hiện rõ trên vách thì đứa bé dụi
mắt đột nhiên la lớn : “Ô ! Mẹ ơi, bố kia kìa !
Mẹ ơi, bố kia kìa !” và nó chỉ vào cái bóng của bố nó trên tường và chạy
lại ôm chầm lấy cái bóng. Lúc này, tim chàng Trương thắt lại, nước mắt chàng ứa
ra mới hiểu được sự thật là không hề có một ai khác cả.
Sự thật là trong những
tháng ngày chàng Trương đi vắng, buổi tối đứa bé hay hỏi mẹ : “Bố đâu ? ”,
người thiếu phụ thường chỉ vào cái bóng của mình trên vách, nói đùa với con :“Bố
kia kìa !”.
Khi hiểu được lời con
nói, chàng Trương mới lạnh toát cả người. Tất cả chỉ là sự nhầm lẫn nhưng đưa
đến hậu quả giết mất người vợ đảm đang và chung thủy.
Chàng Trương lập đàn
cầu siêu cho người vợ chết oan và thề nhất quyết sống một mình cho đến trọn đời
lo nuôi con học hành thành đạt
Đến đời Hậu Lê, vua Lê
Thánh Tông, là vị hoàng đế trị vì lâu nhất thời Hậu Lê 38 năm, có dịp đi kinh
lý ngang qua, thấy cái miếu thờ nàng họ Vũ, gọi là “Miếu Vợ Chàng Trương”. Nghe
câu chuyện thương tâm ấy, vua liền làm một bài thơ :
Nghi ngút
đầu gành tỏa khói hương
Miếu ai như
miếu vợ chàng Trương
Ngọn đèn dầu
tắt đừng nghe trẻ
Dòng nước
can chi lụy đến nàng
Chứng minh
có đôi vầng nhật nguyệt
Giải oan chi
mượn đến đàn tràng
Qua đây mới
biết nguồn cơn ấy
Há trách
chàng Trương quá phũ phàng
Câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương cho ta cái nhìn tổng thể là
nỗi khổ buồn đau của hai bên quá lớn về “ tự ái”. Tự ái là gốc rễ của si mê mà
ra . Nếu hiểu biết được Phật pháp thì ta dùng năng lượng chánh niệm để soi sáng
cho ta thì sự tự ái có khả năng hóa giải.
Chàng Trương là người bị hiểu lầm về câu chuyện của
đứa con nít ngây thơ. Cái thấy của đứa con nít là vậy, thấy sao nói vậy. Do
người lớn chủ quan tin vào câu nói : “ Ngoài đàng hỏi ông già, về nhà hỏi trẻ
con”, cho nên mới đưa đến nhận thức sai lầm chết người đáng tiếc như vậy. Lúc
này chàng Trương thấy mình bị tổn thương nặng, nỗi khổ quá lớn, tự ái tràn ngập
trong lòng, tỏ ra khinh thường vợ và nghỉ rằng làm như vậy thì mình mới hết
khổ. Chàng càng hắt hủi vợ chừng nào thì chàng càng khổ đau chừng ấy, đây là
quy luật, và đương nhiên là nàng cũng khổ đau theo luôn. Mặt khác chàng Trương
cũng là người gây ra hiểu lầm cho vợ tự ái và dẫn đến cái chết oan uổng cho vợ
Trong trường hợp này
không trách ai được. Bên nào cũng có tự ái trấn ngự trong lòng, không bên nào
chịu nói ra thành lời, nói ra bằng tình thương thì dẫn đến chuyện hiểu lầm là
chuyện tất yếu, vì cả hai đều là con người còn yếu kém và vụng về. Cả hai là
nạn nhân của câu chuyện con nít ngây thơ kia, xét cho cùng thì đáng thương hơn
là đáng trách.
Trong lúc người bố xa
nhà, con hỏi mẹ “bố đâu”, mẹ thương con, chỉ cái bóng của mình trên tường là
bố. Đứa bé tưởng thật, trong đầu bé cứ tưởng bố tôi là cái bóng đen đen trên
tường đêm đêm mới có, còn ông bố thật trước mặt thì cho rằng không phải bố mình.
Người lớn nào nghe mà không tức điên lên được ?
Đức Phật dạy rằng, chúng sanh sống trong cuộc đời “nhận giả làm chân” là vậy. Cái thật cho là
giả, cải giả cho là thật. Cái thật là cái bình an trong bên trong của mình, cái
giả là cái bên ngoài đưa vô, không phải mình. Khi nghe, ta phải bình tĩnh mà
nghe, Khi thấy ta bình tĩnh mà thấy. Cái khổ của chúng ta hằng ngày là do nghe
và thấy sai lầm mà ra.
Khi nào tâm mình thật
sự bình an, khi ấy lời nói, suy nghĩ mới chín chắn và vững vàng, mới không gây
sự hiểu lầm và tự ái cho người khác. Ta có thói quen vừa thấy cái gì, vừa nghe
cái gì là tâm dao động, lung lay như ngọn đèn trước gió, làm sao sáng suốt
được. Chúng ta thường không sống bằng cái thật bên trong của mình.
Thân ta như cái nhà,
mắt tai, mũi lưỡi ta như các cửa sổ. Giông bảo đến ta phải biết về nhà đóng các
cửa chính và cửa sổ lại. Cửa không đóng kịp, gió mưa đều sẽ có thể luồn vào
trong nhà và gây ảnh hưởng làm cho căn nhà của ta tan hoang lạnh lẽo. Nếu chúng
ta không biết đóng các cánh cửa của sáu giác quan thì bão tố cảm xúc sẽ làm cho
tâm ta chao đảo liên tục. Thân ta có tổng cộng sáu cánh cửa giác quan là mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đây là sáu cửa ngõ chính dẫn lối cho các tự ái phát
sinh. Chúng ta không biết cảnh giác đề phòng sáu giác quan đang mở toan thì sáu
giác quan kia vẫn sẽ còn lừa gạt ta dài dài.
Tự ái từ đâu mà có ?
Ai tạo ra tự ái cho ta ? Có phải do ta tạo ra tự ái hay do ai khác ngoài ta ?.
Nếu ta không phải là người có quyền cao, chức lớn, lộc nhiều, thì chắc ta không
có tự ái nhiều. Con người có một chút gì đó thì mới có tự ái. Thí như người vô
gia cư, thì lấy đâu ra có tự ái ? Người
đi đường giơ tay cho tiền họ, họ cũng vui, mà không cho họ cũng vui. Thậm chí
nói năng họ, họ cũng vui. Thế là không có tự ái. Còn chúng ta có tiền có của,
có chức vị đụng đâu tự ái đó, sẵn sàng tự ái, đầy dẫy tự ái mỗi ngày. Làm sao
đem lại sự an vui cho những người thân chung sống với mình được ?
Chàng Trương là con
nhà khá giả nên dễ tự ái. Nàng kia xinh đẹp giỏi giang nên cũng dễ có tự ái
riêng. Càng giàu càng đẹp càng có quyền có chức càng dễ có tự ái nhiều hơn, và
càng khổ đau nhiều hơn. Lòng có tự ái không biết kiềm chế, không biết tu tập
chuyển hóa, thì việc vung vãi khổ đau và những thái độ thiếu tôn trọng lẫn nhau
là chuyện đương nhiên.
Nếu người thiếu phụ
Nam Xương kia mà chịu ngồi xuống trong sự bình tĩnh để hỏi chàng Trương đôi
câu. Tại sao anh có thái độ lạnh nhạt với em như thế từ khi em đi chợ mua sắm
về. Em có làm việc gì cho anh tổn thương không, em có lỗi gì với anh không v.v
? Và anh cũng biết đấy ! Trong em vẫn còn nhiều thứ non dại vụng về chưa
làm được việc gì cho anh hài lòng v.v
Khi cô ta nói được vài câu như thế thì lòng cô ta nhẹ nhỏm trước, và có thể tháo gỡ được gút mắt khó khăn trong
lòng mình và người kia. Tại vì ai cũng có tự ái trong lòng mà không biết tháo
gỡ.
Tự ái thật nguy hại
lắm. Tự ái khóa chặt cái lưỡi đôi bên, nó không cho ai mở miệng nói ra được một
lời nào. Nhưng một khi được nói ra bằng tình thương và sự hiểu biết thì cứu
vãng được tình thế khó khăn của đôi bên.
Con người muốn có hạnh
phúc thì đừng để tự ái xen vào. Mà hễ tự ái nổi lên trấn ngự thì đánh mất hạnh phúc của ta ngay. Ở đâu
cũng có tự ái, lãnh vực nào cũng có tự ái. Cấp bậc nào cũng có tự ái. Chỉ trừ
khi nào chúng ta có hành trì lời Phật dạy. Ở đây xin nhấn mạnh là sự “hành trì”
chứ không nói hiểu biết Phật pháp. Có rất nhiều người thông hiểu Phật pháp lắm
nhưng không hành trì, đụng chuyện dù nhỏ, thì tự ái vẫn nổi lên là chuyện
thường.
Hành trì là sự thực
tập ngồi yên lặng, nhắm mắt quay vào bên trong khoảng 10, 15 hay 30 phút mỗi
ngày, vài ngày trong tuần. Một năm sau bạn là người có thể làm chủ được cơn cảm
xúc tự ái bộc phát bất chợt. Nếu không thực tập như thế, bạn là người làm nô lệ
cho tự ái. Khi đã bị làm nô lệ cho tự ái, thì nhìn bạn thấy khủng khiếp lắm. Có
ai nổi tự ái lên mà đẹp đẽ đâu, vui vẻ đâu ?
Cho nên cả người
chồng và người vợ phải thực tập sống nhẹ nhàng thong thả, tức là thiền tập.
Thiền tập là tập nhận diện những khi tự ái, những cơn giận, hờn ghen sắp có
trong tâm mình. Thiền tập là ý thức rất rõ ràng tâm niệm động tịnh sắp diễn ra
trên thân mình, xung quanh môi trường đang sống. Tuyệt đối làm cái gì cũng phải
nhẹ tay, không gây ra tiếng ồn trong nhà. Ai cũng thích nhẹ nhàng yên lặng.
Người mẹ muốn có đứa
con sinh ra khôi ngô tuấn tú, thông minh học giỏi, thì người mẹ phải biết mỉm
cười với con từng giây từng phút. Cười mỉm là thẻ hiện sự thoải mái nhẹ nhàng
trong lòng. Cười nhẹ là người mẹ đang thể hiện tình thương sâu sắc đối với đứa
con sắp chào đời.
Con là tài sản quý
báu của cha mẹ, nhưng cha mẹ không biết cách giữ gìn thân tâm mình an lạc, đi
đứng khoan thai nhẹ nhàng thì đứa con sẽ
ảnh hưởng không tốt do hành vi cha mẹ gây ra. Cho nên, nhẹ nhàng và mỉm cười là
liều thuốc tâm lý hay nhất mầu nhiệm nhất cho con.
Như vậy muốn có một gia đình hạnh phúc chân thật, mỗi người
thành viên trong gia đình phải thực tập chánh niệm thường xuyên, tức là lắng
lòng nhìn vào bên trong mỗi ngày, và nhận diện rõ từng hành động cử chỉ của ta
mọi lúc mọi nơi, mọi việc nhẹ nhàng thong thả, không vội vàng hấp tấp. Như thế
ta sẽ có cuộc sống bình an bên trong cả bên ngoài./.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét