Ý NGHĨA LỄ VU LAN
Hỏi : Tôi tìm hiểu về Lễ Vu Lan, thấy có nhiều cách
giải thích khác nhau về từ này, vậy kính hỏi Vu Lan Bồn có nghĩa chính xác là
gì? Xin cho biết duyên khởi của lễ cúng cô hồn? Ở Việt Nam tục cúng cô hồn bắt
đầu từ lúc nào?
Đáp: Vu Lan Bồn là dịch
âm từ chữ Phạn Ullambana. Hán ngữ phiên âm Ô lam bà na (cũ) hay Vu Lan Bồn (mới),
gọi tắt là Vu Lan, dịch nghĩa là Cứu đảo huyền hoặc Giải đảo huyền.
Về ý nghĩa Vu Lan Bồn, trước
hết, theo ngài Tông Mật (780-841), Tổ thứ 5 của tông Hoa Nghiêm (Trung Hoa) giải
thích: Vu Lan nghĩa là đảo huyền (treo
ngược), cực hình của chúng sanh trong địa ngục. Bồn là chiếc thuyền, tấm ván
hay cái chậu, khay đựng thực phẩm; tượng trưng cho vật cứu hộ các chúng sanh ấy.
Vì thế, Vu Lan Bồn có nghĩa là thực phẩm (đựng trong chậu, khay) dâng cúng chư
Tăng để cầu nguyện cho chúng sanh đang bị đày đoạ (treo ngược) trong địa ngục
được thoát khổ Vu Lan Bồn kinh sớ, quyển hạ). Cách giải thích này được ngài Đạo
Tế (?-683), tác giả bộ Pháp uyển châu lâm yểm trợ và tán đồng. Ngày nay, một số
sách, từ điển Phật học khi giải thích về Vu Lan Bồn vẫn dựa vào cơ sở này.
Tuy nhiên, Vu Lan Bồn chỉ là
phiên âm Hán của Phạn ngữ Ullambana, do đó nếu đem phân tích ý nghĩa từng chữ một
sẽ không có nghĩa, vì phiên âm là cách mượn từ có âm tương đương để đọc. Do đó,
Vu Lan Bồn được dịch nghĩa là Cứu đảo
huyền. Nguyên nghĩa Cứu đảo huyền là giải thích tội nhân bị treo ngược trong địa
ngục. Điều đáng chú ý ở đây là từ “đảo huyền”. Ai cũng biết rằng, các chúng
sanh bị đoạ vào địa ngục tuỳ theo nghiệp của mỗi người mà thọ báo những cảnh khổ
khác nhau. Trong địa ngục có vô lượng vô biên sự thống khổ, chứ không phải chỉ
có tội “treo ngược”. Vì thế, “đảo huyền” không nên hiểu theo nghĩa hẹp mà phải
được hiểu theo nghĩa rộng. Bằng chứng dễ thấy nhất là kinh Vu Lan Bồn đề cập đến
bà Thanh Đề, mẹ Tôn Giả Mục Kiền Liên, bị đoạ làm loài quỷ đói, bị đói khát
hành hạ đến cùng cực. Sự thống khổ chủ yếu của bà Thanh Đề là bị đói khát dày
vò chứ không phải bị treo ngược.
Theo Từ nguyên, “đảo huyền”
được cắt nghĩa là “khốn khổ chi thậm”, nghĩa là sự thống khổ đến tột cùng. Vậy
Cứu đảo huyền không phải “cứu những tội nhân bị treo ngược” mà là “cứu các tội
nhân thoát khỏi sự thống khổ cùng tột” trong địa ngục. Đây chính là nghĩa của Vu
Lan Bồn.
Vấn đề cúng cô hồn rất phổ
biến trong dân gian, đây là pháp bố thí cho những chúng sanh đói khát, vất vưởng,
không nơi nương tựa (cô hồn) được no đủ. Trong dân gian, cúng cô hồn được thực
thi mọi lúc, mọi nơi, tuỳ tâm và duyên sự mỗi nhà, mỗi người; hình thức cũng tuỳ
duyên từ đơn giản như cơm, cháo, gạo, muối, nước cho đến lập đàn chẩn tế âm
linh cô hồn.
Duyên
khởi của lễ cúng cô hồn trong Phật giáo liên quan đến chuyện Tôn giả A Nan với
quỷ miệng lửa (diệm Khẩu), còn gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Căn cứ kinh Phật
Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni (Đại Chính, tập 21): Một buổi tối,
Tôn giả A Nan ngồi thiền định trong thất thì thấy một con quỷ đói, miệng phun lửa
bước vào. Quỷ cho biết ba ngày sau Tôn giả sẽ chết và đoạ vào ngạ quỷ. Tôn giả
A Nan hỏi quỷ về phương cách giải cứu. Quỷ Diệm nhiên nói rằng: “Ngày mai ông
phải bố thí thức ăn cho ngạ quỷ chúng tôi, và vì chúng tôi cúng dường Tam Bảo
thì ông sẽ được tăng thọ đồng thời tôi cũng được sanh về cõi lành”. Tôn giả A
Nan đem chuyện thuật lại với Phật, nhân đó Phật phương tiện chỉ bày phương pháp
thí thực cho loài quỷ đói, gồm thực phẩm và các
đà la ni (thần chú) để ngạ quỷ được no đủ. Các Phật tử Trung Hoa xưa gọi
lễ này là Phóng Diệm khẩu, tức bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa,
lâu ngày truyền tụng trong nhân gian thành tục cúng cô hồn.
Tại Việt Nam, theo Đại Việt
sử ký toàn thư, pháp trai đàn thí thực
cho âm linh cô hồn được du nhập từ năm
1302 (thời Trần) do một đạo sĩ Hứa Tông Đạo. Năm 1320, Pháp Loa đã tổ chức Đại
trai đàn chẩn tế ở chùa Phổ Minh (Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận). Có
thể nói, pháp thức trai đàn chẩn tế thí
thực ân linh cô hồn được bắt đầu từ đời Trần, và duy trì cho đến ngày nay./.
Trích Phật pháp Bách vấn tập II.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét