DUY NGÃ ĐỘC TÔN
Hỏi: Nhân mùa Phật đản,
chúng tôi đến các chùa chiêm bái lễ đài đều gặp câu “Thiên thượng thiên hạ, duy
ngã độc tôn” nhưng khi hỏi về ý nghĩa thì được các thầy và Phật tử trả lời khác
nhau. Vậy xin cho biết nguồn gốc và ý nghiac của lời dạy trên?
Đáp: Thiên thượng
thiên hạ, duy ngã độc tôn là câu kệ nổi tiếng được Phật sơ sanh tuyên bố khi
Ngài đản sanh. Vào đời, Ngài bước đi bảy bước, ngoảnh mặt nhìn sáu phương, bước
cuối cùng dừng lại, tay chỉ lên trời tay chỉ xuống đất nói rằng “Trên trời, dưới
trời, chỉ mình Ta là tôn quý nhất”.
Lời tuyên bố này, được ghi
chép lại trong rất nhiều kinh điển thuộc Hán tạng. Theo kinh Trường A Hàm I
“Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh,
sanh lão bệnh tử” (Trên trời, dưới trời, chỉ mình Ta là tôn quý. Việc cần yếu của
Ta là độ chúng sanh thoát ly sanh già bệnh chết - kinh Đại Bổn Duyên).
Kinh Tu Hành Bản Khởi ghi
“Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Tam giới vi khổ, ngô đương an chi”
(Trên trời dưới trời, chỉ Ta là tôn quý nhất. Ba cõi đều khổ, Ta sẽ làm cho
chúng sanh an lạc - Đại Chính tân tu).
Kinh Thái Tử Thuỵ Ứng Bản Khởi,
quyển thượng chép “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn. Tam giới giai khổ, hà
khả lạc giả?” (Trên trời dưới trời, chỉ có Ta là tôn quý nhất. Ba cõi đều khổ,
ai là người có thể đem lại sự an lạc?- ĐCTT).
Kinh Phổ Diệu nói “Thiên thượng
thiên hạ, vi thiên nhân tôn”(Trên trời dưới trời Ta là bậc tôn quý của trời và
người - ĐCTT). Kinh Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi thuật “Thiên thượng thiên hạ, tôn
vô quá ngã giả” Trên trời dưới trời, bậc tôn quý nhất không ai bằng Ta - ĐCTT).
Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả “Ngã ư nhất thiết thiên nhân chi trung tối tôn tối
thắng. Vô lượng sanh tử ư kim tận hỷ” (Ta, đối với tất cả hàng trời người là bậc
tối tôn tối thắng. Vô lượng sanh tử từ nay chấm dứt-ĐCTT). Kinh Phật Bản Hạnh Tập
“Thế gian chi trung, ngã vi tối thượng. Ngã tùng kim nhật, sanh phần dĩ tận” Ở
trong thế gian, Ta là bậc cao nhất. Từ nay, việc sanh tử của Ta đã đoạn tận -
ĐCTT). Ngoài ra, còn nhiều kinh sử khác như: Phật Sở Hành Tán, Đại Đường Tây Vực
Ký, Hữu Bộ Tỳ Nại Da tạp sự .v.v..đều có thuật lại sự kiện Đản sanh. Tuy có
khác biệt đôi chút về phần cuối kệ tụng này giữa những kinh điển, song đa phần
vẫn thống nhất ở phần đầu kệ “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”.
Về ý nghĩa của câu “Thiên
thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” thường được hiểu theo hai phương diện cơ bản
như sau Thứ nhất, tuy có “duy ngã độc tôn” nhưng hoàn toàn vắng mặt cái Ta, chấp
ngã vì Ngài đã chứng đắc và thành tựu tuệ giác vô ngã. Ở đây chỉ đơn thuần là
khẳng định, xác chứng một sự thật của người đã thành tựu giải thoát tối hậu.
Ngài khẳng định cho chúng sanh trong ba cõi rằng Ngài đã đoạn tận phiền não,
hoàn toàn giải thoát, là Bậc thù thắng nhất, Bậc tôn quý nhất ở thế gian, không
có chúng sanh nào có thể sánh với phước đức và trí tuệ của Bậc Như Lai. Duy ngã
độc tôn nên hiểu là Như Lai và giáo pháp của Như Lai là tôn quý bậc nhất, không
ai có thể vượt thắng, không gì có thể so sánh. “Một người, này các Tỳ kheo, khi
xuất hiện ở đời là xuất hiện một người, không hai, không có đồng bạn, không có
so sánh, không có tương tợ, không có đối phần, không có người ngang bằng, không
có đặt ngang bằng, Bậc tối thượng giữa các loài hai chân. Một người ấy là ai?
Chính là Như Lai, Bậc A la hán, chánh đẳng giác (Kinh Tăng Chi Bộ I, phẩm Một
người).
Về một phương diện khác,
“duy ngã độc tôn” là một sự khám phá toàn triệt về tự ngã. Vô minh bị trói buộc
và sai khiến của tự ngã nên chúng sanh mãi chìm đắm, trôi lăng trong sáu đường
sanh tử. Nên khi thành Đạo, Ngài tuyên bố “Ta lang thang trong luân hồi qua bao
kiếp sống, tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà. Hởi kẻ làm nhà, nay ta đã gặp ngươi
rồi, ngươi không thể làm nhà được nữa. Cột, đòn tay, xà nhà của ngươi đã tan vụn
rồi…” Pháp Cú -154) kẻ làm nhà tham ái, chấp ngã xây nên căn nhà ngũ uẩn với chằng
chịt phiền não đã bị khám phá và chinh phục.
“Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” không hề mang ý nghĩa tự tôn,
cao hạ. Ngài khẳng định và xác chứng quả vị giải thoát tối hậu, sự khám phá và
chinh phục tự ngã đồng thời còn là biểu hiện từ bi vô lượng nhằm độ thoát chúng
sanh./.
Trích Phật pháp Bách vấn tập II.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét