Thứ Hai, 3 tháng 3, 2025

GIEN DI TRUYỀN VÀ NHÂN QUẢ

 

GIEN DI TRUYỀN VÀ NHÂN QUẢ

        Hỏi: Theo khoa học, tướng mạo đẹp, xấu .v.v…của một con người là do ảnh hưởng  của gien di truyền. Trong khi đó, quan điểm của Phật giáo thì cho rằng con người hiện tại là kết quả của luật nhân quả. Xin cho biết những ảnh hưởng nhân quả lên tướng trạng và giải thích rõ về quan điểm này.

 Đáp: Thuyết nhân quả là một trong những giáo lý cơ bản của Phật giáo. Phạm trù nhân quả rất rộng lớn, đa dạng, tương quan mật thiết và tác động lẫn nhau trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Vì thế, để hiểu một cách sâu sắc và toàn triệt về nhân quả, nhất là quả dị thục thì ngoài việc nghiên cứu về phương diện lý thuyết cần phải thể nghiệm nhân quả bằng tuệ giác, kinh nghiệm nội tại thông qua thiền định như các bậc Thánh, bởi quả dị thục của nghiệp là một trong bốn phạm trù mà con người không thể tư duy được (Kinh Tăng Chi Bộ).

          Nhân quả nói đầy đủ là nhân-duyên-quả. Nhân là nguyên nhân chính, duyên là những nguyên nhân phụ, quả là kết quả. Tiến trình từ nhân đến quả rất phức tạp: Nhân quá khứ trổ quả hiện tại; nhân quá khứ trổ quả vị lai; nhân hiện tại trổ quả hiện tại; nhân hiện tại trổ quả vị lai. Trong đó, duyên (nhân phụ) đóng vai trò rất quan trọng, chi phối mãnh liệt đến quả, có khả năng làm lệch hướng kết quả so với nhân ban đầu. Do vậy, nhận thức nhân quả phải dựa trên nền tảng tương quan duyên khởi, mỗi hiện tượng vừa là kết quả vừa là nguyên nhân, luôn chi phối lẫn nhau vô cùng tận.

          Con người, theo Phật giáo là một hợp thể của vật chất và tinh thần (năm uẩn). Nó là kết quả của quá trình vận động nhân quả-nghiệp báo. Quá trình vận động này không đơn thuần là nhân nào quả nấy mà cả một chuỗi nhân–duyên-quả tương tác qua lại, chi phối và ảnh hưởng lẫn nhau trùng trùng điệp điệp để hình thành chúng sanh. Hai phương diện thân và tâm (hình dáng và tính cách nói riêng) của một cá nhân là sự phản ảnh trung thực nhân quả-nghiệp báo của con người ấy đồng thời nhân quả liên tục ảnh hưởng và chi phối trực tiếp đến thân tâm từng phút từng giây trong hiện tại.

          Đành rằng trong kinh điển Phật giáo có đề cập đến những loại nhân quả có tính tương ứng nhất định như: Quá đam mê sắc dục đời sau sẽ làm chim sẻ, bồ câu; quá si mê đời sau sẽ làm lợn, dê; hay trêu  ghẹo người đời sau làm khỉ, vượn…” (Kinh Địa Tạng) hoặc người nào nhiều nóng giận, phẫn nộ đời sau sẽ chịu xấu xí người nào không nóng giận đời sau sẽ đẹp đẽ…” (Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt, Trung Bộ III). Vì nghiệp nhân của mỗi người đều có thiện ác lẫn lộn nên có quả báo thiện ác, tốt xấu xen lẫn như: Có người đẹp mà nghèo; có người xấu lại thông minh; có người giàu lại nhiều bệnh tật; có giai đoạn thì cực khổ rồi giai đoạn khác thì hanh thông .v.v… Chỉ có một số ít người tốt đẹp hoặc xấu ác hoàn toàn.

          Tuy nhiên, tất cả những gì xảy đến cho con người không phải hoàn toàn dựa vào nghiệp nhân quá khứ mà còn phụ thuộc vào rất nhiều và nghiệp nhân hiện tại (nghiệp mới). Bởi nghiệp mới có khả năng  chuyển hoá những nghiệp cũ trong quá khứ, thậm chí có thể chấm dứt dòng sanh tử. Mặt khác, một nghiệp nhân chưa hẳn đưa đến quả dị thục do thiếu duyên chẳng hạn. Vì thế, “không thể nào lập được một bản liệt kê đối chiếu giữa các loại nhân và quả bởi vì nhân và quả đều là duyên sinh mang ý nghĩa bất định như các pháp hữu vi khác” (Thích Chơn Thiện, Phật Học Khái Luận).

          Do đó, vấn đề tướng mạo đẹp xấu của con người, theo Phật giáo là kết quả của những nghiệp nhân trong quá khứ và hiện tại. Tuy vậy,  không nên nhận thức đơn thuần theo cách nhân nào quả nấy một cách cố định mà cần nhận thức nhân quả trong tương quan trùng trùng duyên khởi đồng thời phải thấy được vai trò tích cực của nghiệp mới trong nỗ lực chuyển hoá nghiệp cũ.

          Về phương diện khoa học, gien di truyền (ADN) quyết định hình dáng đẹp xấu của con người là kết quả nghiên cứu khoa học, được chứng minh cụ thể và điều này không có gì mâu thuẫn với thuyết nhân quả. Bởi nếu xem bộ gien là nhân thì những gì được bộ gien thiết lập chính là quả. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào nguyên lý vật chất duy nhất là gien di truyền để quyết định tướng trạng đẹp xấu của con người trong suốt cuộc đời thì chưa đủ.

          Đơn cử có gia đình người cha da đen, mẹ da trắng sinh ra ba người con, một da trắng đẹp đẽ và hai da đen xấu xí. Ba người con này có chung một bộ  gien di truyền nhưng do tính chất trội và lặn mà có người đẹp người xấu. Vậy ai hoặc cái gì chi phối việc “trội, lặn” của gien? Do trời hay số phận? Phật giáo khẳng định do nhân quả - nghiệp báo của chính người ấy. Ví dụ khác, hai người sinh đôi giống hệt nhau (trường hợp một nhân tách làm hai) nhưng vì hoàn cảnh nên từ nhỏ mỗi người sống một nơi. Hai mươi năm sau gặp lại, người A cao to, khoẻ mạnh, thông minh và người B nhỏ thấp, yếu gầy, chậm lụt. Người B vẫn mang trong mình bộ gien tốt nhưng do môi trường sống quá thiếu thốn nên không phát triển đúng mức. Vậy thì bộ gien tốt vẫn chưa quyết định hoàn toàn đến tướng trạng con người!  Trường hợp khác, một người có gien đẹp đẽ, thông minh lớn lên được như ý nhưng không may bị tai nạn, trở thành tật nguyền, tàn phế. Trong khi có người sanh ra bị sứt môi nhưng lớn lên đủ duyên lành phẫu thuật trở lại bình thường. Vậy thì trong thời điểm hiện tại  ai đẹp, ai xấu, ai hạnh phúc, ai khổ đau?

          Mặt khác, con người ngoài thân thể vật chất còn có tinh thần. Gien di truyền không  quy định được tính cách, tâm lý vốn sanh diệt trong từng sát na. Do vậy, gien di truyền chỉ là nhân quả của một giai đoạn, mang tính thứ yếu, là một duyên trong việc quyết định tướng trạng hay thân phận của đời người. Chính nhân quả - nghiệp báo của cá nhân mới quyết định trọn vẹn đến các phương diện đời sống./.

 

 

 

 

 

 

 

QUẢ DỊ THỤC

Phụ chú:  Quả dị thục (dị là khác, thục là chín): Theo Thành Duy Thức Luận thì Dị thục có ba nghĩa:

1/ Dị thời nhi thục (chín khác thời), nghĩa là nhân và quả cách đời mà chín.

 2/ Biến dị nhi thục (chín đổi khác) nghĩa là quả do nhân đổi khác mà chín.

3/ Dị loại nhi thục  (chín và biến đổi), lúc chín biển đổi khác với ban đầu. Ví dụ trái xoài lúc chín nó chuyển đổi màu sắc và chất chua ban đầu, khác nhau cả màu sắc và chất lượng.

          Quả dị thục là quả chín muồi và đổi khác so với nhân ban đầu, chính là nghiệp quả hay quả báo của nghiệp. Đức Phật từng cho biết kẻ phàm phu không thể nào tư duy về quả dị thục trong tương lai của một nghiệp nhân, là như thế nào.

          Có hai loại: Một là quả đến ngay với nhân. Ví dụ: vỗ bàn tay thì ngay sau đó có tiếng vang ra. Hai là quả trổ vào thời gian khác về sau, quả thứ hai này gọi là quả dị thục. Ví dụ, hôm nay trồng hột xoài qua 4,5 năm sau cây xoài lớn mới cho ra trái.

          Dị thục là chín muồi, từ dùng để chỉ chung cho quả báo của các nhân thiện hay ác đã tạo ra từ đời trước. Vì khi chín (thục) thì tính chất lại khác (dị) với cái nhân ban đầu nên gọi là dị thục. Ví dụ, trái xoài lúc chín nó khác với trái xoài ban đầu, cả màu sắc và vị ngọt của nó./.

Trích Phật pháp Bách vấn tập II.

GIEN DI TRUYỀN VÀ NHÂN QUẢ Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét