UẨN KHÚC TRONG KINH THÁNH CẦU
Hỏi: Tôi đọc kinh
Trung Bộ có đoạn “…Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời
như vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta…”. Tôi thắc mắc vì
sao Phật mà còn than “kổ não” và “bực mình”. Mong được giải thích.
Đáp : Kinh Thánh Cầu
(Kinh số 26. Trung Bộ I, HT Thích Minh Châu dịch) ghi lại sự phân vân, do dự của
Đức Thế Tôn trước khi khởi vận bánh xe Pháp, nguyên văn như sau: “Pháp này do
Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu
lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục,
khoái ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham
thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý (Y tánh Duyên khởi pháp); sự kiện
này thật khó thấy, tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái
diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác
không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho
Ta!”. Nhà nghiên cứu Bình Anson sau khi hiệu đình kinh này, dựa vào bản Anh ngữ
The Middle Length Discourser of the Buddha, Tỳ kheo Anamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch
1995, cùng giữ nguyên bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu.
Tuy nhiên, ngài Narada trong
tác phẩm The Buddha anh his Teachings (Đức Phật và Phật pháp, Phạm Kim Khánh dịch,)
diễn dịch đoạn kinh trên thoáng và thanh hơn “khổ não”, “bực mình” như sau: “
Giáo pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật thâm sâu huyền diệu, khó nhận thức,
khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi luận lý, tế nhị, chỉ
còn bậc thiện tri thức mới thấu hiểu. Chúng sanh còn luyến ái trong nhục dục
ngũ trần. Lý nhân quả tương quan “Tuỳ thuộc phát sanh”, là một đề mục rất khó
lãnh hội, và Niết bàn- trạng thái chấm dứt mọi hiện tượng phát sanh có điều kiện,
từ bỏ mọi khát vọng, tiêu diệt mọi tham ái, không luyến ái và chấm dứt- cũng là
một vấn đề không phải dễ lãnh hội. Nếu Như Lai truyền dạy giáo pháp ấy, kẻ khác
ắt không thể hiểu được. Thật là phí công vô ích, thật là phí công vô ích”.
Đối chiếu hai bản dịch, đoạn
“thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta” và “Thật là phí công vô
ích, thật là phí công vô ích” chúng ta có thể thấy bản Việt ngữ của Hoà thượng
Thích Minh châu dịch “nghĩa” và bản Anh ngữ của ngài Narada dịch “ý”, để diễn đạt
sự do dự của Thế Tôn trước khi ngài truyền bá giáo pháp.
Phật là bậc Giác ngộ, giải
thoát hoàn toàn khỏi sự chi phối của phiền não nên chắc chắn rằng Ngài không
bao giờ khổ não và bực mình. Vậy thì tại sao Phật lại biểu lộ phân vân, đợi đến
khi Phạm Thiên, sau ba lần cung thỉnh Ngài thuyết pháp rồi mới chuyển pháp
luân? Theo kinh Trung Bộ I (Tóm tắc và chú giải) của Thích nữ Trí Hải, sở dĩ Phật
có sự do dự, không muốn thuyết pháp vì: “ Sau khi đắc đạo, Ngài mới thấy sức mạnh
của vô minh phiền não trong tâm chúng sanh, và sự sâu xa vi diệu của giáo pháp.
Hơn nữa, Ngài chờ Phạm Thiên thỉnh cầu mới nói ra giáo pháp là cốt cho những
người thờ Phạm Thiên thấy được giá trị của Pháp, mới mong mỏi lắng nghe pháp.
Như vậy, đoạn kinh “thật khổ
não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta” (lập trường dịch bám sát văn nghĩa của
dịch giả) cần hiểu theo ý nghĩa của chú giải như đã trích dẫn. Đó chính là
phương tiện thiện xảo của các bậc Giác ngộ. Tất cả những biểu hiện của Ngài đều
được dẫn dắt bởi tuệ giác và tâm từ bi vô lượng, nhằm cứu khổ, chuyển mê khai
ngộ cho chúng sanh./.
Trích Phật pháp Bách
vấn tập II.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét